ĂN CHAY. Định nghĩa - Trai kỳ - Trường trai.
1. Định nghĩa :
Ăn chay là ăn các loại
thực phẩm phát xuất từ thảo mộc hay được chế biến từ thảo mộc.
Thí dụ : Ăn các loại rau
cải, hoa quả, củ đậu, tàu hủ, tương chao, các loại nấm, vv . . .
Trái với Ăn chay là Ăn
mặn.
Ăn mặn là ăn các loại thực
phẩm phát xuất từ động vật hay được chế biến từ động vật. Động vật là nói chung
các loài vật cử động : bò, bay, máy, cựa.
Thí dụ : Ăn thịt heo, gà
vịt, bò, cá, tôm, cua, ba tê, lạp xưởng, hột vịt lộn, cá mòi hộp, vv . .
.2 . Trai kỳ :
.2 . Trai kỳ :
Chữ “chay” do chữ Hán là
“trai” nói trại ra. Trai có nghĩa là trong sạch, thanh tịnh.
Trai kỳ là ăn chay kỳ, tức
là ăn chay một số ngày nhứt định trong mỗi tháng âm lịch, những ngày còn lại
thì được ăn mặn.
Có hai loại trai kỳ : Lục trai và Thập trai.
- Lục trai là ăn chay mỗi tháng 6 ngày, đạo
Tiên gọi là Nguơn Thủy Lục trai, do Đức Nguơn Thủy lập ra.
Sáu ngày chay qui định
trong tháng âm lịch là :
1, 8,
14, 15, 23,
30.
Nếu tháng âm lịch thiếu,
không có ngày 30 thì ăn chay ngày 29 thế vào cho đủ 6 ngày chay.
- Thập trai là ăn chay mỗi
tháng 10 ngày, đạo Phật gọi là Chuẩn Đề Thập trai, do Đức Phật Chuẩn Đề lập ra.
Mười ngày chay qui định
trong tháng âm lịch là :
1, 8,
14, 15, 18,
23, 24, 28,
29, 30.
Nếu tháng âm lịch thiếu,
không có ngày 30 thì ăn chay ngày 27 thế vào cho đủ số 10 ngày chay.
3 .
Trường trai :
Trường trai là ăn chay
trường, tức là ăn chay hoài từ ngày nầy qua ngày khác (không có ngày nào ăn
mặn).
Theo Tân Luật, các tín đồ
còn trong cấp Hạ thừa thì ăn chay kỳ tức là ăn 6 ngày hoặc 10 ngày trong tháng;
còn các tín đồ trong bực Thượng thừa thì ăn chay trường.
Trong bực Hạ thừa, ăn chay
6 ngày trong một tháng là giai đoạn tập sự để cho quen dần với việc ăn chay,
không nên giữ hoài như vậy, mà sau đó phải ráng tiến lên ăn chay 10 ngày trong
một tháng thì mới được nhìn nhận là tín đồ thiệt thọ chánh thức của Đạo Cao
Đài, mới thọ hưởng được các bửu pháp khi qui liễu, tức là các phép bí tích độ
hồn trong cơ tận độ của Đức Chí Tôn; nếu còn ăn chay 6 ngày trong một tháng thì
không hưởng được những điều nầy và tang lễ chỉ làm bạt tiến mà thôi.
(Làm bạt tiến là làm lễ đề
cử dâng lên các Đấng thiêng liêng xin cứu giúp vong hồn cho được siêu thăng).
(Xem Chương chót : Tang lễ)
Hai bực tín đồ : 10 ngày
chay và 6 ngày chay trong một tháng, chỉ khác nhau có 4 ngày chay, mà quyền lợi
trong Đạo rất khác biệt nhau. Chúng ta rất nên lưu ý.
Ăn chay nửa năm : Đối với
người ăn chay 10 ngày trong một tháng, nếu ăn chay thêm 3 tháng có rằm lớn
trong 1 năm (tức là tháng giêng, tháng 7 và tháng 10) thì tổng cộng ăn chay
được nửa năm trong một năm.
(Ăn chay luôn 3 tháng thì
được 90 ngày, còn lại 9 tháng, ăn chay mỗi tháng 10 ngày thì được 90 ngày. Tổng
cộng ăn chay được : 90 ngày + 90 ngày = 180 ngày, tức là nửa năm).
4 .
Ngũ vị tân còn gọi là Ngũ huân :
Ngũ vị tân là 5 thứ có vị
cay nồng và mùi hôi. (Tân là cay). Ngũ vị tân gồm : hành, hẹ, tỏi, kiệu, nén.
Bên Phật giáo, khi ăn chay
thì cữ Ngũ vị tân.
Tu theo Tiên giáo, khi ăn
chay, không kiêng cữ các thứ nầy, hễ là thảo mộc thì được ăn.
Trong Thánh Ngôn Sưu Tập,
Quyển 1, đàn cơ ngày 16-1-1926, ông Quí Cao giáng cơ gọi Ngũ vị tân là Ngũ kỵ,
tức là 5 thứ cấm kỵ không cho ăn đối với Phật giáo.
Ông Quí Cao viết rằng :
“ Ngũ kỵ là : hành, tỏi, sả, ớt, tiêu.
Theo Phật giáo thì kỵ, Tiên giáo thì không.
Phật vì tích Mục Liên Thanh Đề gọi là uế vật, là phi.
Tiên đạo cho dùng các thảo mộc, chẳng kỵ vật chi.”
Trong quyển sách Thiên Đạo
của Ngài Bảo Pháp Nguyễn Trung Hậu có viết về việc nầy như sau :
“ Trong Trời Đất không có
chi là tuyệt đối, thì sự ăn chay tất nhiên cũng không nên tuyệt đối.
Cái nguyên tắc của sự ăn
chay là ăn toàn những chất thuộc thảo mộc, thì năm thứ : hành, hẹ, tỏi, nén,
kiệu, gọi là Ngũ huân, vẫn là thảo mộc.
Có cữ chăng là những bậc
công cao quả dày, tham thiền nhập định, vì nó có tính cách kích thích và thương
tổn tinh thần.
Người mới học đạo cần phải
lao động trong trường công quả thì chưa buộc phải kiêng cữ, nhưng ai kiêng cữ
được cũng nên.
Vậy, việc ăn chay cũng như
việc tu hành, không nên thái quá mà cũng không nên bất cập.”
5 .
Người ăn chay trường có phải cữ trầu thuốc không ?
Để giải đáp vấn đề nầy,
chúng ta phân bực tu Thượng thừa ra hai nhóm :
1 - Các Chức sắc còn nhiệm vụ phổ độ nhơn sanh.
Nhóm nầy hoạt động gần gũi
với nhơn sanh, đi đứng nhiều, giao tiếp nhiều, nên Tân Luật không bắt buộc phải
cữ Ngũ vị tân và không cấm ăn trầu hút thuốc. Tuy nhiên, nên cữ Ngũ vị tân vì
cái hại của nó là làm cho tánh của mình thêm nóng nảy, cũng như cần phải cữ ăn
trầu và hút thuốc vì nó gây thêm phiền toái và làm hại sức khỏe. Đã là Chức sắc
của Hội Thánh thì nên kiêng cữ các thứ kể trên để làm gương tốt cho nhơn sanh.
2 - Nhóm tu thượng thừa luyện đạo trong Tịnh Thất.
Trong Tân Luật, phần Tịnh
Thất, điều thứ 6 có ghi:
“ Nhập Tịnh Thất rồi phải
tuyệt trầu thuốc và không được ăn vật chi ngoài mấy bữa cơm.”
Ngũ vị tân làm cho linh
hồn yếu ớt; ăn trầu, hút thuốc thì hại kim đơn. Hành giả tu thiền định, luyện
đạo cần phải kiêng cữ tuyệt đối các thứ kể trên.
II . Ích lợi của việc ăn chay :
1. Ăn chay thì giữ được Ngũ Giới Cấm dễ dàng.
Ngũ Giới Cấm
là giới luật rất quan trọng đối với người tu ở bực thượng thừa. Không giữ tròn
Ngũ Giới Cấm thì không thể đắc đạo được.
Người ăn
chay trường thì giữ được Ngũ Giới Cấm dễ dàng, vì :
- Ăn chay
trường thì tránh được sát sanh trong sự ăn uống. Đã không nỡ giết hại sanh vật
để ăn thịt thì cũng đâu nỡ giết chúng để làm trò chơi. (Bất sát sanh)
- Hễ không ăn thịt thì
cũng dễ cữ rượu, vì rượu thịt luôn luôn đi kèm nhau như bóng với hình. (Bất tửu
nhục)
- Không ăn thịt uống rượu
thì lòng dục lắng xuống, nên không nghĩ đến tà dâm, phá hại gia cang của người.
(Bất tà dâm)
- Nhờ ăn chay trường mà
lòng tham vật chất không có cơ hội nẩy nở. Đã tu rồi thì còn cầu chi tiền tài,
của cải, vì khi chết, linh hồn đâu có đem theo được các thứ đó, chỉ đem theo
công đức và tội lỗi mà thôi. Do đó việc trộm cướp hay gian lận tài vật rất ít
khi xảy ra. (Bất du đạo)
- Nhờ ăn chay trường mà
tâm hồn trở nên thanh cao, tránh được việc nói dối lường gạt người, gây đau khổ
cho người mà đem lợi lộc về cho mình. (Bất vọng ngữ)
2 . Ăn chay để thanh lọc bản thể, tinh khiết chơn
thần:
Những thức ăn mặn là huyết
nhục của các loài động vật nên chỉ bổ dưỡng cho thể xác con người, vì thể xác
con người cũng là huyết nhục.
Các thức ăn chay là rau
đậu, trái cây, ngũ cốc; các thứ nầy nhờ hấp thụ trực tiếp ánh sáng mặt trời,
dưỡng khí, đạm khí của không khí, lại hấp thụ các chất khoáng trong lòng đất,
nên các thức ăn chay có hai tác dụng bổ dưỡng :
- Bổ dưỡng xác thân nhờ
những chất khoáng hấp thu trong đất và đạm khí
trong không khí.
- Bổ dưỡng chơn thần nhờ
hấp thu ánh sáng và dưỡng khí.
Như thế, chúng ta phải
nhận rằng, với chế độ ăn chay đầy đủ gồm nhiều rau đậu và trái cây, ăn chay rất
tốt so với ăn mặn, vì nó bổ dưỡng cả thể xác và chơn thần.
Người ăn chay trường lâu
năm tạo được vừng hào quang trong sáng nơi đỉnh đầu, chơn thần cũng được trong
sáng, tinh tấn, nên nhẹ nhàng hơn không khí. Đến kỳ thoát xác, chơn thần xuất
ra khỏi thể xác một cách dễ dàng và bay khỏi bầu không khí đến các cõi thiêng
liêng.
Người ăn mặn thì chơn thần
mờ tối, trọng trược, vì ăn huyết nhục của thú cầm, nên nặng nề, không thể bay
thoát khỏi bầu khí quyển được.
Thánh ngôn của Đức Chí Tôn
dạy rõ rằng :
“ Nó (chơn thần) vẫn là
chất tức hiệp với không khí Tiên Thiên, mà trong khí Tiên Thiên thì hằng có
điển quang. Cái chơn thần buộc phải tinh tấn, trong sạch, mới nhẹ hơn không
khí, ra khỏi ngoài càn khôn đặng.
Nó phải có bổn nguyên chí
Thánh, chí Tiên, chí Phật, mới xuất Thánh, Tiên, Phật đặng.
Phải có một thân phàm tinh
khiết mới xuất chơn thần tinh khiết.
Nếu như các con còn ăn
mặn, luyện đạo rủi có ấn chứng thì làm sao mà giải tán cho đặng. Như rủi bị
huờn thì đến khi đắc đạo, cái trược khí ấy vẫn còn, mà trược khí thì lại là vật
chất tiếp điển, thì chưa ra khỏi lằn không khí đã bị sét đánh tiêu diệt.
Còn như biết khôn thì ẩn
núp tại thế mà làm một bậc Nhơn Tiên thì
kiếp đọa trần cũng còn chưa mãn.
Vì vậy mà Thầy buộc các
con phải trường trai mới đặng luyện đạo.”
(TNHT 1-2 hợp nhứt, B 20)
Bát Nương giáng cơ giải về
cõi Âm Quang, cho biết : Muốn qua khỏi cửa Âm Quang thì phải ăn chay trường.
“ Ấy là một cái quan ải, các chơn hồn khi qui Thiên,
phải đi ngang qua đó. Sự khó khăn bước khỏi qua đó là đệ nhứt sợ của các chơn
hồn. Nhưng tâm tu còn lại chút nào nơi xác thịt con người, cũng nhờ cái sợ ấy
mà lo tu niệm. Có nhiều hồn chưa qua khỏi đặng, phải chịu ít nữa đôi trăm năm,
tùy chơn thần thanh trược. Chí Tôn buộc trường trai cũng vì cái quan ải ấy.” (TNHT1-2 hợp
nhứt, B 159)
3 . Ăn
chay là luyện tập Bi, Trí, Dũng :
- Loài vật nào cũng biết
ham sống sợ chết như người, biết chỗ nguy hiểm thì tránh né hay trốn chạy để
bảo tồn sự sống. Khi sắp bị giết chết, chúng biết sợ sệt và rên la đau đớn.
Không giết hại chúng nó để ăn thịt là thể hiện lòng thương yêu, đức tánh từ bi.
Do vậy, việc ăn chay là để tập cho tánh
BI càng ngày càng phát triển.
- Khi ăn chay, chúng ta
mới sáng suốt nhận định rằng, loài thú vật cũng được Thượng Đế ban cho nó sự
sống như con người, nó chỉ là đàn em kém tiến hóa hơn con người mà thôi. Sau
nhiều lần chuyển kiếp, chúng nó cũng sẽ tiến hóa lên thành người như chúng ta.
Do đó, không giết hại chúng là để phát triển đức tánh sáng suốt trong con người
chúng ta, tức là phát triển thể TRÍ.
- Trước sự hấp dẫn của các
món rượu thịt thơm ngon, cũng như sự mời mọc nài ép của bạn bè, ta can đảm từ
khước, tức là ta có hùng tâm dũng chí, không để dục vọng thấp kém lôi kéo. Như
vậy, ta có được cái DŨNG.
Vậy, sự ăn chay là để phát
triển ba đức tánh : BI, TRÍ, DŨNG trong con người chúng ta, để cuối cùng, ba
đức tánh ấy phát triển rực rỡ cao tột thì đắc thành Tiên Phật.
4 . Ăn chay là để tránh quả báo luân hồi :
Việc giết hại mạng sống
của con vật tạo thành một ác nghiệp. Sau nầy, hồn của con vật ấy sẽ đòi chúng
ta phải trả món nợ sát mạng đó, và theo luật công bình thiêng liêng, chúng ta
phải luân hồi tái kiếp để đền trả mối nợ oan nghiệt ấy.
Còn việc
ăn chay, tuy cũng có giết hại
mạng sống loài thảo mộc, nhưng tội nầy nhẹ hơn nhiều so với việc giết hại thú
vật, vì loài thảo mộc kém tiến hóa rất nhiều so với thú cầm.
Hơn nữa, việc sát hại thảo
mộc để nuôi sống xác thân của chúng ta, được chúng ta đền trả lại bằng xác thân
của chúng ta khi chết. Khi chết, xác
thân của chúng ta được vùi chôn trong lòng đất, rồi dần dần sẽ tan rã thành
những chất bổ dưỡng nuôi sống thảo mộc. Khi sống thì ta ăn thảo mộc, khi chết
thì thảo mộc ăn lại xác thân ta. Thế là hòa, không ai nợ ai. Như vậy, việc ăn
chay giúp chúng ta không mắc nợ oan nghiệt, mà không mắc nợ oan nghiệt thì
thoát khỏi luân hồi.
5 . Ăn
chay để kềm chế Lục dục Thất tình :
Ăn chay, ăn những thức ăn
thanh đạm, không chứa máu thịt của loài động vật, nên làm dịu bớt bầu máu nóng
trong người, dục vọng nhờ đó cũng giảm bớt cường điệu.
Lục dục Thất tình lúc nào
cũng đòi hỏi xác thân làm cho nó thỏa mãn, nhưng nhờ ăn chay, chúng ta kềm chế được nó, rèn luyện nó hướng tới mục
đích thanh cao.
Thay vì chúng ta muốn giết
một con gà để làm thành món ăn khoái khẩu, chúng ta nên lấy thức ăn thích hợp
của gà rải cho nó ăn, để chúng ta nhìn nó đang sung sướng vui vẻ vì khoái khẩu.
Chúng ta nhìn cái vui và cái sung sướng của con gà để chúng ta có được cái vui
mừng cao thượng của kẻ ban ơn.
III .
Giải đáp một số câu hỏi về ăn chay.
1.-) Ăn tôm,
cua, sò, ốc được kể là ăn chay không ?
Ăn tôm cua sò ốc, tức là
ăn thịt các loài động vật. Chúng nó cũng có sanh mạng và sự sống. Phải bắt giết
chúng nó thì mới ăn thịt được, rõ ràng ta phạm tội sát sanh, nên ăn tôm cua sò
ốc dứt khoát không phải là ăn chay, mà đó là ăn mặn. Có người còn ngụy biện nói
rằng vì chúng nó có máu trắng. Dù máu trắng nhưng chúng nó là loài động vật có
tri giác, biết tìm thức ăn, biết chống cự hay trốn chạy ẩn núp khi mạng sống
của chúng bị đe dọa.
2.-) Ăn chay có được dùng bơ, sữa, mật ong, trứng
gà không?
Về bơ (beurre) và phô-ma
(fromage), ta phân biệt hai loại : Bơ thực vật (beurre végétale) và Bơ động vật
(beurre animale).
- Bơ thực vật làm bằng các
chất béo của thực vật như đậu phộng, dừa, trái bơ; sữa thực vật như sữa đậu
nành, sữa đậu phọng . . . Bơ và sữa thực vật là thức ăn chay hoàn toàn, người
ăn chay trường dùng rất tốt.
- Bơ động vật và phô-ma là
hai loại được chế tạo từ sữa bò, sữa trâu. Dùng các thứ nầy không mang tội sát
sanh, nên người ăn chay trường có thể dùng các thứ đó làm thức ăn chay. Tuy
nhiên về phương diện thanh và trược thì bơ, phô-ma và sữa động vật có tính chất
trược hơn các thức ăn thảo mộc.
Do đó, bên Phật giáo vẫn
cho phép dùng bơ và sữa động vật làm món ăn chay.
Nó có nguyên nhân xa xưa
là lúc Thái tử Sĩ-Đạt-Ta từ bỏ lối tu khổ hạnh, chuyển qua lối tu trung đạo,
Ngài kiệt sức, bất tỉnh, nằm chết giấc dựa cội cây bồ đề. Có một thiện nữ được
báo mộng trước, hôm ấy chuẩn bị bình bát sữa tìm đến cội bồ đề, cúng dường cho
Phật. Khi Phật tỉnh lại, Phật cầm bình bát sữa uống cạn, nhờ vậy, Phật dần dần
phục hồi sức khỏe.
Về mật ong :
Mật ong do các con ong hút
mật hoa hay hút chất đường rồi dùng nước miếng của nó tạo thành. Mật ong là
thực phẩm hoàn toàn chay, rất bổ dưỡng, dùng cho người ăn chay trường rất tốt.
- Về
trứng gà, trứng vịt, trứng cút :
Nếu các loại trứng có
trống, tức là có chứa sẵn một mầm sống trong đó, để theo thời gian sẽ phát
triển thành một sinh vật mới, khi dùng chúng làm thức ăn, tức là chúng ta sát
hại mầm sống ấy, ắt phạm tội sát sanh.
Nếu trứng không trống, khi
ta dùng thì không phạm tội sát sanh. Tuy vậy, trứng vẫn là chất trược, không
làm cho chơn thần chúng ta trong sáng và thanh nhẹ, nên cần phải cẩn thận,
không nên lạm dụng, tốt nhứt là không nên dùng.
Đối với những vị đang lập
công trong trường thi công quả, việc ăn chay trường không nên quá bảo thủ khắt
khe, nhứt là những khi đau ốm, cần phải phục hồi sức khỏe mau chóng để lo làm
công quả, thì việc dùng thêm các loại bơ, sữa động vật, hay các loại trứng
không trống, là một điều có thể thông cảm được vì không phạm giới sát sanh,
nhưng chúng ta vẫn nhớ rằng các thức ăn ấy có chất trược, không tốt cho chơn
thần.
Một điều mà chúng ta cần
lưu ý là việc ăn chay là hành động tự giác tự nguyện vì lợi ích cho bản thân
của chúng ta, chớ không phải lợi ích cho Đức Chí Tôn hay Phật Mẫu.
3) Ăn chay
trường có thành Tiên, Phật không ?
Nếu chỉ có ăn chay trường
mà không làm công quả thì không thể thành Tiên, Phật đặng. Người ăn chay trường
ấy, khi chết, chơn thần và linh hồn được trong sạch nhẹ nhàng, được siêu thăng
lên các cõi Trời, hưởng sự an nhàn, nhưng không có ngôi vị là Tiên, hay Phật.
Muốn thành Tiên, Phật thì
buộc phải có công quả.
“ Người dưới thế nầy muốn giàu có phải kiếm phương thế
mà làm ra của. Ấy là về phần xác thịt. Còn Thần, Thánh, Tiên, Phật, muốn cho
đắc đạo phải có công quả. Thầy đến độ rỗi các con là thành lập một trường công
đức cho các con nên đạo.” (TNHT 1-2 hợp nhứt, B 17)
Muốn có công đức thì phải
làm công quả.
Việc ăn chay trường chỉ
tạo được chơn thần trong sáng, làm công quả mới đắc thành Tiên, Phật.
Nhưng ngược lại, nếu có
đầy đủ công quả mà không ăn chay trường thì cũng không thể thành Tiên, Phật
được, vì chơn thần trọng trược không thể bay khỏi bầu khí quyển mà lên cõi
thiêng liêng. Hơn nữa, vì ăn mặn nên còn bị linh hồn các con vật đòi các món nợ
oan nghiệt, nên chúng nó buộc chặt chơn thần người đó không cho bay lên cõi
TLHS.
Cho nên, muốn đắc thành
Tiên Phật thì phải có đủ hai điều kiện : 1.- Đầy đủ công quả. 2.- Ăn chay trường.
4) Ăn chay
thì thanh, ăn mặn thì trược, tại sao ?
Có nhiều nguyên do, kể ra
sau đây :
a.- Về cấp tiến hóa : Thảo mộc ở cấp tiến hóa
thấp hơn động vật, chỉ có Sanh hồn; còn động vật thì ở cấp tiến hóa cao hơn, có
được hai phần hồn là : Sanh hồn và Giác hồn. Do đó, loài động vật khi đau đớn
biết rên la, khi sợ hãi biết chạy trốn.
b.- Về sự sinh sản và di truyền nòi giống : Loài thảo mộc
có nhị đực và nhị cái ở trong cùng một cái hoa hay trên cùng một thân cây, nhờ
ong bướm hay gió thổi mà nhị đực rơi vào nhị cái, kết thành trái và hột để di
truyền nòi giống.
Loài động vật thì con đực
và con cái là hai thân thể khác nhau, chúng có lòng dục nên tìm gặp nhau giao phối, để sanh sản. Khi sanh sản thì máu
huyết tiết ra dơ dáy.
Do đó, loài động vật thuộc
Hậu Thiên Cơ ngẫu nên trọng trược, còn loài thảo mộc thuộc Tiên Thiên Cơ ngẫu
nên thanh nhẹ.
c - Về sự sinh sống : Loài thảo mộc sống nhờ
hấp thu ánh sáng mặt trời và hấp thu các tinh chất của không khí và của đất,
nên thảo mộc chứa nhiều sinh tố và khoáng chất.
Loài động vật sống nhờ ăn
thảo mộc hay ăn thịt lẫn nhau, nên thịt của nó chứa ít sinh tố và có chất độc.
Do đó, chúng ta ăn loài
thảo mộc thì vừa bổ dưỡng chơn thần vừa bổ dưỡng thể xác, còn ăn thịt thú cầm
thì chỉ bổ dưỡng thể xác mà lại làm cho chơn thần ô trược.
d - Về tính dẫn điện :
Khi thoát xác, chơn thần
của người ăn chay trường thì trong sáng, nhẹ nhàng, bay lên thoát qua lớp không
khí dễ dàng; còn chơn thần người ăn mặn thì trọng trược mờ tối, nên không thể
bay lên cao được, lại nữa, vì chơn thần trọng trược nên có tính dẫn điện tốt,
dễ bị sét đánh tiêu tan khi bay lên cao.
5) Thảo mộc
có mạng sống, nên ăn chay cũng sát sanh, thì hơn ăn mặn chỗ nào ?
Thảo mộc là một loài trong
chúng sanh, nó cũng có mạng sống, nhưng mạng sống của nó nhỏ bé hơn mạng sống
của thú cầm, vì nó chỉ có một phần hồn là
Sanh hồn, và ở cấp tiến hóa thấp hơn thú cầm. Do đó, việc sát hại thảo
mộc ít tội tình oan nghiệt hơn sát hại thú cầm.
Vả lại, muôn loài vạn vật
phải ăn mà sống. Để giải quyết cái ăn nầy, Thượng Đế dùng “ Vạn linh phụng sự
Vạn linh”, tức là dùng loài sanh vật nầy làm thực phẩm nuôi sống loài sanh vật
kia, và loài sanh vật nào bị hy sinh nhiều nhất thì lại sanh hóa nhiều nhất để
quân bình cuộc sống trong CKVT.
Thảo mộc và ngũ cốc là hai
thứ sanh vật mà Thượng Đế dành để nuôi sống con người, nên cấu tạo cơ thể của
con người không có móng vuốt và không có răng bén nhọn chơm chởm. Nếu con người
ăn thịt thú cầm là do dục vọng muốn tìm khẩu vị khác lạ mà thôi.
Vậy con người ăn thảo mộc
là thuận Thiên ý, nhờ đó con người mới tiến hóa nhanh. Còn ăn thịt động vật là
do dục vọng của con người bày đặt thêm ra, trái với Thiên ý, nên nó trì kéo con
người chậm bước tiến hóa.
Việc sát hại sanh mạng của
con thú để làm thức ăn nuôi sống thân ta tạo thành một oan nghiệt. Hồn con thú
ấy chờ khi ta chết, sẽ đến đòi mạng và kéo níu chơn thần chúng ta không cho
siêu thăng về cõi thiêng liêng.
Còn việc sát hại loài thảo
mộc để làm thức ăn nuôi sống thân ta, thì ta sẽ lấy xác thân ta khi chết để làm
thức ăn cho thảo mộc, sự vay trả như thế là đồng đều, nên không tạo ra oan
nghiệt.
6) Ăn chay có được phép ăn bù vào ngày khác không?
Hôm nay là ngày mùng 8
nhằm ngày ăn chay, nhưng vì tiệc tùng với người đời hay vì bạn bè nài ép, nên
ăn mặn, rồi qua ngày hôm sau, ăn chay bù trở lại. Việc đó thế nào ?
Chúng ta thấy rõ người ấy
có tinh thần muốn ăn chay cho đúng các ngày theo luật định, nhưng vì một lý do
vui vẻ nên không ăn được.
Như vậy là mình quá dễ dãi
với sự đòi hỏi của xác thân, xem những lời nài ép của bè bạn quan trọng hơn lời
Minh thệ giữ gìn Luật Đạo của mình. Đó là một sai lầm.
Việc ăn chay bù là để vớt
vát lại nhưng nó chứng tỏ lương tâm mình không thắng nổi sự lôi cuốn của dục
vọng thể xác. Thể xác thì thúc đẩy mình ăn uống rượu thịt vui say, mình chiều
theo nó là mình yếu kém hơn nó, đầu hàng nó.
Từ sự thua nhỏ dần dần dẫn tới thua lớn, và vật dục sẽ làm trì trệ bước
đường tiến hóa của mình, khiến chúng ta phải bị kẹt lại trong thời kỳ Chuyển
thế, không kịp bước vào Nguơn Thánh đức.
9) Nhiều người ăn chay mà lời nói còn hung dữ quá ! Hành động còn
thâm độc quá ! Tôi không cần ăn chay, miễn tôi làm lành làm phước là đủ rồi.
- Quả đúng như vậy. Nhưng
đâu phải vì họ ăn chay mà họ trở nên hung dữ và thâm độc. Chúng ta nên nghĩ
rằng : Nếu họ không ăn chay thì họ còn hung dữ và thâm độc hơn gấp bội. Nhờ ăn
chay mà họ đã bớt tánh hung dữ nhiều lắm rồi đó.
Họ là người mới tập tễnh
bước vào đường tu, hoặc là kẻ giả tu không chừng. Nhưng ta so sánh với họ làm
gì ! So sánh với người kém hơn ta thì có ích lợi gì cho sự tiến hóa của ta, của
linh hồn ta ? Hay chỉ để thỏa mãn tánh ích kỷ, cống cao ngã mạn của ta ? Chúng ta muốn dừng lại ở mức tiến hóa nầy,
hay muốn tiến hóa cao hơn nữa ?
Tại sao chúng ta không
nhìn lên các bậc chơn tu có đầy đủ đức hạnh ? Chúng ta cần phải học hỏi và bắt
chước các vị ấy thì chúng ta mới tiến hóa nhanh được.
10) Ăn chay
thì lòng phải chay là sao ?
Chay, chữ Hán là “trai” nghĩa là trong sạch. Lòng chay là
lòng trong sạch. Đó là lòng biết quí trọng đạo đức, bác ái và công bình. Nếu ăn
chay mà lòng không chay, tức là không biết ý nghĩa của việc ăn chay, hay biết
mà không tin tưởng, thì không khác chi người không tiền mua cá thịt, đành phải ăn tương rau dưa
muối vậy thôi, đâu có ích lợi gì cho đường đạo đức !
IV. Giải thích vài từ ngữ đã dùng.
1. Sự tích Ngũ vị tân theo Phật giáo :
Bà Thanh Đề
là mẹ của ông Mục Kiều Liên, khi đến chùa lễ Phật, không mang theo cúng phẩm
nên các vị tăng tiếp khách đón tiếp lạnh nhạt. Trong lúc đó, những vị mang
nhiều phẩm vật đến cúng chùa thì được các tăng đón tiếp niềm nở, trà nước đầy đủ. Bà
Thanh Đề đem lòng oán giận, nên sau đó, bà làm một mâm bánh bao nhưn thịt mang
đến cúng dường thì các tăng thấy vậy ra tiếp đón rất niềm nở, trà nước đầy đủ.
Khi các tăng báo cáo lên
Hòa Thượng trụ trì, Hòa Thượng biết rõ sự việc nên cấm nhặt chư tăng không được
dùng các bánh bao nầy và phải đem đổ bỏ sau chùa.
Thời gian sau, nơi chỗ đổ
các bánh bao nhưn thịtù, mọc lên 5 thứ cây có vị cay nồng và hôi hám. Đó là 5
thứ cây : hành, hẹ, tỏi, nén, kiệu. Hòa Thượng trụ trì cho đó là uế vật, cấm
chư tăng không được dùng làm thức ăn vì chúng kích thích lòng dục và tánh nóng
nảy của con người.
2 .
Tam hồn :
Theo luật tiến hóa của
chúng sanh thì :
- Vật chất gồm đất, đá,
nước, không khí được Thượng Đế tạo ra trước tiên, sau đó, vật chất tiến hóa lên
thành loài thảo mộc, được Thượng Đế ban cho một phần
hồn gọi là Sanh hồn, làm
cho thảo mộc có sự sống.
- Kế đó, thảo mộc tiến hóa
lên thành loài thú cầm thì Thượng Đế ban thêm cho nó một phần hồn nữa gọi là
Giác hồn để tạo cho nó sự hiểu biết và bảo vệ sự sống.
Vậy loài thú cầm đã có
được hai phần hồn là : Sanh hồn và Giác hồn.
- Sau cùng, loài thú cầm
tiến hóa lên thành người nguyên thủy và được Thượng Đế ban thêm cho một phần
hồn nữa gọi là Linh hồn để con người có sự sống, có sự hiểu biết, có sự suy
nghĩ và có tánh linh.
Như vậy con người có được
Tam hồn gồm : Sanh hồn, Giác hồn và Linh hồn. Linh hồn là quan trọng nhứt vì
nhờ nó mà con người linh hơn vạn vật.
3 .
Tam thể xác thân.
Về phương diện tu hành,
trong thân thể của con người có ba thể gọi là Tam thể xác thân.
- Thứ nhứt là thể xác, do
cha mẹ phàm trần sanh ra và được nuôi dưỡng bằng thực phẩm phàm trần.
- Thứ nhì là chơn thần,
tức là xác thân thiêng liêng, do Đức Phật Mẫu lấy nguyên khí nơi Diêu Trì Cung
tạo thành. Chơn thần nầy làm khuôn mẫu cho thể xác và khi xuất ra khỏi thể xác
thì lấy hình ảnh của thể xác. Trung tâm của chơn thần là não bộ và cửa xuất
nhập của nó là mỏ ác, đạo gia gọi là Nê hoàn cung.
- Thứ ba là chơn linh hay linh hồn, do Đức Chí Tôn lấy một điểm linh quang của Thái Cực
ban cho.
Chơn linh điều khiển chơn thần, chơn thần điều
khiển thể xác. Chơn linh không trực tiếp điều khiển thể xác.
Home [ 1 ] [ 2 ] [ 3 ] [ 4 ] [ 5 ] [ 6 ] [ 7 ] [ 8 ] [ 9 ] [ 10 ] [ 11 ] [ 12 ] [ 13 ] [ 14 ] [ 15 ] [ 16 ] [ 17 ] [ 18 ] [ 19 ] [ 20 ] [ 21 ] [ 22 ] [ 23 ] [ 24 ]