CÁCH LẠY
1 . Ấn
Tý là gì ?
Ấn là dấu hiệu đặc biệt về
mặt đạo có tác dụng huyền bí do hai bàn tay kết lại tạo ra. Tý là chi đầu tiên
trong Thập nhị Địa chi : Tý, Sửu, Dần, Mẹo, Thìn, vv . . . .
Trên bàn tay trái, vị trí
của Tý ở tại chân ngón áp út, Sửu ở chân ngón giữa và Dần ở chân ngón trỏ.
Ấn Tý là cái ấn mà ngón
tay cái của bàn tay trái co lại chỉ vào chi Tý rồi nắm lại, bàn tay mặt ốp bên
ngoài mà ngón cái chỉ vào chi Dần của bàn tay trái.
2 .
Cách bắt Ấn Tý :
Ấn Tý là cái ấn đặc biệt
của Đạo Cao Đài, cách bắt như sau : (Xem hình vẽ 1,2,3,4,5)
- Hình 1 : vị trí của ba
Địa chi : Tý, Sửu, Dần trong thập nhị Địa chi nơi bàn tay trái.
- Hình 2 : ngón cái co lại
đặt tại chi Tý, ý nghĩa là : Thiên khai ư Tý (Trời mở ra ở hội Tý).
- Hình 3 : nắm bốn ngón
tay trái lại, bên trong có ngón cái làm như cái hột ở giữa.
- Hình 4 : bàn tay mặt ốp
bên ngoài nắm tay trái ấy, ngón cái của bàn tay mặt đặt vào vị trí chi Dần của
tay trái, ý nghĩa : Nhơn sanh ư Dần (Người sanh ra ở hội Dần).
- Hình 5: Khi lạy úp đôi
bàn tay xuống và xoè ra,
nhưng ngón tay Trái để dưới và ngói tay Phải gác lên trên. Ý nghĩa: Âm Dương
hòa hợp, vạn vật đồng chuyển sinh tồn, trong vũ trụ tám phương, mười hướng cộng
hưởng hòa bình tự do dân chủ Mục Quyền.
Hai tay bắt như vậy gọi là
Ấn Tý.
Cách bắt Ấn Tý có ý nghĩa
về sự tạo thành Trời Đất và Nhơn loại, theo quan niệm của người xưa ở đông
phương : Thời gian tạo thành càn khôn vũ trụ và vạn vật được chia làm 12 khoảng,
mỗi khoảng thời gian được gọi là Hội và đặt tên theo Thập nhị Địa chi : Hội Tý
là Hội đầu tiên, kế đến Hội Sửu, sau đó là Hội Dần, vv. . . .
* Thiên khai ư Tý : Trời
mở ra ở hội Tý.
* Địa tịch ư Sửu : Đất mở ra ở hội Sửu (tịch là mở).
* Nhơn sanh ư Dần : Người
sanh ra ở hội Dần.
* Các hội tiếp theo là sự
tiến hóa của trời, đất, người và vạn vật
đến chỗ hoàn hảo.
Ấn Tý là ấn đặc biệt của
Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ mà Đức Chí Tôn đặt ra. Cho nên trong thời ĐĐTKPĐ, mỗi khi
lạy, chúng ta đều phải bắt Ấn Tý, trong tất cả các trường hợp, dù đó là lạy Đức
Chí Tôn, Đức Phật Mẫu, lạy các Đấng Thần Thánh Tiên Phật, hay lạy Cửu Huyền
Thất Tổ, lạy Vong phàm.
II . Cách lạy và xá :
Lạy là gì ?
Lạy là tỏ ra bề ngoài lễ kỉnh trong lòng.
Hai tay chấp lại bắt theo
Ấn Tý tạo hình như một trái cây, tượng trưng sự kết quả của hai thời kỳ Phổ Độ
trước là : Nhứt Kỳ Phổ Độ và Nhị Kỳ Phổ Độ.
- Thời Nhứt Kỳ Phổ Độ :
Đức Thái Thượng Đạo Tổ dạy cách bắt tay : Bàn tay trái nắm lại, ngón cái để
ngoài, bàn tay mặt ốp vào bên ngoài, hai ngón cái đặt song song sát nhau, giống
như cái bông búp. Khi lạy thì đứng chấp tay nơi ngực, cúi người xuống thấp, hai
bàn tay chống lên đất, hai đầu gối lần lượt quì xuống, cúi đầu gần sát đất.
Xong rồi rút hai tay lên, kế chống một gối, đặt hai tay lên gối rồi đứng dậy.
Lạy như vậy gọi là phủ phục.
- Thời Nhị Kỳ Phổ Độ : Đức
Phật Thích Ca dạy cách bắt tay và lạy như sau : Hai bàn tay xòe ra và chấp lại
cho hai lòng bàn tay ốp sát vào nhau, giống như cái hoa sắp nở, khi lạy thì cúi
người xuống thấp, mở hai bàn tay ra đặt ngửa trên mặt đất, giống như cái hoa nở
(gọi là hoa khai), cúi đầu xuống cho trán chạm vào lòng hai bàn tay, xong rút
tay lên chấp lại như cũ và đứng dậy.
- Thời Tam Kỳ Phổ Độ : Đức
Chí Tôn dạy chúng ta chấp hai tay bắt Ấn Tý, giống như trái cây có cái hột bên
trong (gọi là kết quả), quì xuống, cúi đầu và mở hai bàn tay ra đặt úp lên mặt
đất, hai ngón tay cái gác tréo nhau (Hình 5), giống như chúng ta gieo hột giống
xuống đất, trán cúi xuống chạm nhẹ lên mô bàn tay, rồi cất người lên.
Tóm lại, Ấn Tý của Đạo Cao
Đài có hai ý nghĩa :
* Một là biểu thị ba thời
kỳ đầu tiên tạo dựng CKVT (gồm Trời, Đất, Người) của Đức Chí Tôn Thượng Đế.
* Hai là tượng trưng sự
kết quả của hai thời kỳ Phổ Độ trước (Nhứt Kỳ Phổ Độ và Nhị Kỳ Phổ Độ).
Cách xá :
Khi đứng xá, hai tay bắt
Ấn Tý, đưa lên trán, ý nghĩa là kỉnh Thiên (Trời), xá sâu xuống, ý nghĩa là
kỉnh Địa (Đất), rồi rút Ấn Tý lên đặt nơi ngực, ý nghĩa là kỉnh Nhơn (Người).
Xá như vậy nhắc chúng ta kính Tam Tài : Thiên, Địa, Nhơn.
Chỉ xá trước khi lạy và
sau khi lạy xong, phải xá sâu xuống. Lưu ý là giữa hai lạy, không có xá nhỏ xen
vào.
1. - Cách lạy Đức Chí Tôn :
- Đứng thẳng người, mặt
hướng vào Thiên bàn, tay bắt Ấn Tý, xá sâu 3 xá, quì xuống (chân trái bước tới,
chân phải quì xuống, chân trái quì theo), đặt ấn Tý trước ngực.
- Lấy dấu Phật Pháp Tăng :
* Đưa ấn Tý lên giữa trán
niệm : Nam mô Phật.
* Đưa qua màng tang trái,
niệm : Nam mô Pháp.
* Đưa qua màng tang mặt,
niệm : Nam mô Tăng.
(Khi đưa ấn Tý qua Pháp
hay qua Tăng, nhớ giữ cái đầu luôn luôn thẳng đứng, đừng nghiêng đầu qua
nghiêng đầu lại)
- Đưa ấn Tý xuống đặt giữa
ngực, cúi đầu và niệm :
. Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát.
. Nam mô Quan Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát.
. Nam mô Lý Đại Tiên Trưởng kiêm Giáo Tông ĐĐTKPĐ
. Nam mô Hiệp Thiên Đại Đế Quan Thánh Đế Quân.
. Nam mô chư Phật chư Tiên chư Thánh chư Thần.
- Đưa ấn Tý lên giữa trán
cầu nguyện Đức Chí Tôn.
- Lạy xuống lần thứ nhứt,
nhớ hai bàn tay mở ra úp xuống, hai ngón cái gác tréo nhau (Hình 5), đầu gật
xuống :
* gật thứ 1 niệm :
Nam mô Cao Đài Tiên Ông
Đại Bồ Tát Ma Ha Tát.
- gật thứ 2 : cũng niệm y
như vậy.
- gật thứ 3 : cũng niệm y
như vậy.
- gật thứ 4 : cũng niệm y
như vậy.
Xong rồi cất mình lên, vẫn
quì.
- Lạy xuống lần thứ nhì,
lần lượt gật 4 gật, mỗi gật cũng niệm câu Chú của Thầy y như vậy.
- Lạy xuống lần thứ ba,
làm y như lần lạy thứ nhì.
Như vậy, có 3 lần lạy (tức
là lạy 3 lạy), mỗi lạy gật đầu 4 gật, mỗi gật niệm “Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại
Bồ Tát Ma Ha Tát”. Câu niệm đó gọi là câu Chú của Thầy. Tổng cộng lạy 3 lạy, 12
gật, 12 lần niệm.
Lạy xong, đứng dậy, xá sâu
xuống 3 xá.
Nếu nơi Thánh Thất thì có
bàn thờ Đức Hộ Pháp, phải quay lại, xá chữ KHÍ 1 xá.
Nếu không phải nơi Thánh
Thất, không có bàn thờ Đức Hộ Pháp và chữ KHÍ thì khỏi quay lại xá. Xong lui
ra.
Thật ra, phải lạy Đức Chí
Tôn 12 lạy, nhưng Đức Chí Tôn ân xá, chỉ cho lạy 3 lạy và 12 gật, mỗi gật thay
thế một lạy. Số 12 là số riêng đặc biệt
của Đức Chí Tôn.
Lưu ý : Nhận thấy có một
vài vị, khi lạy xong, cất mình lên, rút tay bắt ấn Tý đặt lên ngực, lại xá nhỏ
xuống một cái. Cái xá nhỏ nầy thừa.
2 - Cách lạy Đức Phật Mẫu :
Khi đến Điện Thờ Phật Mẫu,
chúng ta vào chánh điện, đứng thẳng người hướng vào bàn thờ Đức Phật Mẫu, tay
bắt ấn Tý, xá sâu 3 xá vừa cúi đầu, rồi quì xuống.
Đưa ấn Tý lên trán, xá sâu
xuống một xá, vừa xá vừa niệm : Nam mô
Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực Thiên Tôn.
Rút ấn Tý đặt trở lên
ngực, rồi đưa lên trán, xá sâu xuống lần thứ nhì, vừa xá vừa niệm :
Nam mô Cửu vị Tiên Nương.
Xá sâu xuống lần thứ ba,
vừa xá vừa niệm :
Nam mô Bạch Vân Động chư
Thánh.
. Đưa ấn Tý lên trán cầu
nguyện với Đức Phật Mẫu. . Lạy xuống 3 lạy, mỗi lạy 3 gật, mỗi gật niệm :
Nam mô Diêu Trì Kim Mẫu Vô
Cực Thiên Tôn.
Như vậy, lạy 3 lạy, 9 gật,
9 lần niệm danh hiệu của Đức Phật Mẫu.
Lạy xong đứng dậy, xá 3
xá, day ngược ra sau, xá cái phông màu trắng 1 xá. Cái phông ấy tượng trưng Khí
Sanh quang mà Đức Phật Mẫu dùng để nuôi sống chúng ta. Xá xong lui ra.
3 - Cách lạy Tiên, Phật :
Trước khi lạy, vào đứng,
bắt ấn Tý, xá 3 xá, rồi quì xuống, nếu có cầu nguyện chi thì đưa ấn Tý lên trán
cầu nguyện, xong lạy xuống 3 lạy, mỗi lạy gật 3 gật, mỗi gật niệm danh hiệu của
Đấng ấy.
Thí dụ : Lạy Đức Phật
Thích Ca thì niệm : Nam mô Tây Phương Giáo Chủ Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn.
Lạy Cửu vị Tiên Nương thì
niệm : Nam mô Cửu vị Tiên Nương.
4 - Cách lạy Thần, Thánh :
Trước khi lạy, vào đứng,
bắt ấn Tý, xá 3 xá, rồi quì xuống, nếu có cầu nguyện chi thì đưa ấn Tý lên trán
cầu nguyện, xong lạy xuống 3 lạy trơn (không gật), mỗi lạy niệm danh hiệu của Đấng ấy.
Thí dụ : Lạy Bạch Vân Động
chư Thánh thì mỗi lạy niệm : Nam mô Bạch
Vân Động chư Thánh.
Lạy Thần Hoàng Bổn Cảnh
thì mỗi lạy niệm : Nam mô Thần Hoàng Bổn Cảnh.
5 - Cách lạy Cửu Huyền Thất Tổ :
Giống y như lạy Thần,
Thánh, nghĩa là 3 lạy trơn, mỗi lạy niệm : Nam mô Cửu Huyền Thất Tổ.
6 -
Cách lạy Vong phàm :
Vong phàm là vong linh của
người phàm tục.
Người phàm tục là người
chưa giác ngộ lẽ đạo, chưa có tín ngưỡng Trời Phật hay tôn giáo, chưa tin tưởng
con người có một linh hồn bất diệt.
Trong PCT Chú Giải, phần
Quyền hành của Chánh Phối Sư, người phàm tục được định nghĩa như sau :
PCT : “ Kẻ ngoại giáo, Tả
đạo Bàng môn, người vô đạo, riêng nắm quyền hành thế tục, nghịch cùng chơn lý
chánh truyền, mượn thế lực phàm tục mà diệt lành dưỡng dữ, mê hoặc nhơn sanh,
lưu luyến trần thế, trên không biết Trời, dưới không kỉnh Đất, lấy người làm
lợi khí đặng vụ tất công danh, quyền quyền thế thế, chẳng kiêng nể luân hồi,
ham vật chất hơn tinh thần, lấy vinh hoa của kiếp sanh làm sở nguyện, như thú
vật, cây cỏ, sắt đá, chỉ biết sống mà không biết sống làm gì, còn không hay, mà
mất cũng không biết. Ấy là hạng phàm, gọi là đời đó vậy. “
Lạy Vong phàm gồm 4 lạy :
2 lạy quì và 2 lạy đứng, thực hành như sau :
Trước khi lạy, vào đứng,
hai tay bắt ấn Tý, xá 3 xá.
Quì xuống, nếu có cầu
nguyện chi thì đưa ấn Tý lên trán cầu nguyện, xong lạy xuống 2 lạy trơn (không
gật).
Hai lạy quì ý nghĩa là 1 lạy kính Thiên và 1 lạy kính
Địa.
Xong rồi đứng lên, tay vẫn
bắt ấn Tý, cúi mình lạy xuống theo lối phủ phục, chống đầu gối đứng dậy, rồi
lạy xuống như vậy một lần nữa. Đó là 2 lạy đứng dành cho phần người, ý nghĩa là
1 lạy Âm và 1 lạy Dương. Xong thì xá 1 xá rồi
lui ra.
7 - Cách lạy Chức sắc, Chức việc, Đạo hữu đã qui
liễu :
Cách lạy tùy theo phẩm
tước của vị Chức sắc ấy đối phẩm với hàng nào trong Cửu phẩm Thần Tiên.
a) Chức sắc đối phẩm Phật vị và Tiên vị : gồm Đức Giáo Tông, Đức Chưởng Pháp, Nam Đầu Sư,
Nữ Đầu Sư, Đức Hộ Pháp, Đức Thượng Phẩm, Đức Thượng Sanh, Thập nhị Thời Quân.
Lạy theo cách lạy Tiên,
Phật, nghĩa là 3 lạy 9 gật, mỗi gật niệm danh của Chức sắc ấy.
Thí dụ : Lạy Đức Quyền
Giáo Tông Lê Văn Trung thì niệm : Nam mô Đức Quyền Giáo Tông.
(Ở đây không dùng Thánh
danh Thượng Trung Nhựt vì Thánh danh nầy là của phẩm Đầu Sư).
Lạy Bà Nữ Đầu Sư Hương
Hiếu thì niệm : Nam mô Nữ Đầu Sư Hương Hiếu.
Lạy Đức Phạm Hộ Pháp thì
niệm : Nam mô Tam Châu Bát Bộ Hộ Pháp Thiên Tôn.
Lạy Đức Cao Thượng Phẩm
thì niệm : Nam mô Đức Cao Thượng Phẩm.
Lạy Ngài Khai Pháp Trần
Duy Nghĩa thì niệm : Nam mô Trần Khai Pháp Chơn Quân. . . . . vv . . .
b) Chức sắc đối phẩm Thánh vị :
Đối phẩm hàng Thánh vị gồm
các phẩm Chức sắc :
- Bên Cửu Trùng Đài, từ
Chánh Phối Sư đổ xuống tới hàng Giáo Hữu,
- Bên Hiệp Thiên Đài, từ
phẩm Tiếp Dẫn Đạo Nhơn đổ xuống tới Truyền Trạng,
- Bên Cơ Quan Phước Thiện
thì từ phẩm Thánh Nhơn đổ xuống tới phẩm Chí Thiện,
- Và các phẩm Chức sắc
tương đương trong các cơ quan khác của Đạo như : Bộ Nhạc, Ban Kiến Trúc, Ban Nhà
Thuyền, Ban Thế Đạo, vv . . . (Xem Bảng
Đối phẩm nơi cuối Chương Phước Thiện)
Cách lạy giống y như lạy
Thánh, nghĩa là 3 lạy trơn, mỗi lạy niệm phẩm tước và Thánh danh của vị ấy, nếu
không có Thánh danh thì niệm Thế danh.
c) Lễ Sanh, Chức việc Bàn Trị Sự và Đạo hữu :
- Lễ Sanh và các phẩm Chức
sắc tương đương được đối phẩm Thiên Thần, nên khi qui liễu, được lạy theo hàng
Thần vị, nghĩa là 3 lạy trơn.
- Chức việc BTS gồm :
Chánh Trị Sự, Phó Trị Sự, Thông Sự làm tròn nhiệm vụ thì được đối phẩm Nhơn Thần;
Đạo hữu giữ tròn bổn phận và ăn đủ 10 ngày chay mỗi tháng được đối phẩm Địa
Thần; các phẩm nầy và các phẩm tương đương khi qui liễu thì được lạy theo hàng
Thần vị : 3 lạy trơn.
Điều nầy rất hợp lý, vì
theo PCT : Chánh Trị Sự, Phó Trị Sự, Thông Sự đối phẩm Nhơn Thần; Đạo hữu đối
phẩm Địa Thần, nên các phẩm nầy đều thuộc Thần vị.
Nếu cho rằng các phẩm nầy
khi qui liễu là Vong phàm thì trái với PCT, hơn nữa 3 phẩm Chánh Trị Sự, Phó
Trị Sự, Thông Sự là Hội Thánh Em (Đầu Sư Em, Giáo Tông Em, Hộ Pháp Em), thay
mặt Hội Thánh Anh, cầm quyền hành đạo nơi hương đạo thì không thể xem là Vong
phàm được.
PCT : (Đoạn nầy trích trong Quyền hành Chánh Phối Sư)
“ Trong Cửu Trùng Đài có
Đầu Sư thì đối với phẩm Địa Tiên; Chưởng Pháp thì đối với phẩm Nhơn Tiên; Giáo
Tông thì đối với phẩm Thiên Tiên; Tam Trấn Oai Nghiêm thay quyền Phật vị tại
thế nầy. Ấy vậy, các Đấng ấy đối phẩm cùng các Đấng Trọn lành của Bát Quái Đài.
Giáo Tông giao quyền cho
Đầu Sư, Đầu Sư lại phân quyền cho Chánh Phối Sư (Hay !) lập Đạo đặng độ rỗi nhơn
sanh; cũng như Hộ Pháp giao quyền cho Thượng Sanh và Thượng Phẩm.
Còn Chánh Phối Sư và Phối
Sư đối phẩm Thiên Thánh; Giáo Sư đối
phẩm Nhơn Thánh; Giáo Hữu đối phẩm Địa Thánh; Lễ Sanh đối phẩm Thiên Thần;
Chánh Trị Sự, Phó Trị Sự và Thông Sự đối phẩm Nhơn Thần, chư Tín đồ đối phẩm
Địa Thần. (Hay !)
Ấy vậy, các vị ấy đối phẩm vào hàng Thánh của Bát Quái Đài
là cầm quyền lập Đạo.”
d) Chức sắc và Đạo hữu thất thệ, làm đám tang theo
cách Bạt tiến :
Trong trường hợp nầy, dầu
ở phẩm cấp nào, chúng ta cũng lạy theo
hàng Vong phàm, nghĩa là 2 lạy quì và 2 lạy đứng.
8 - Lạy người sống :
Khi con cháu lạy cha mẹ
hoặc ông bà còn sống, hay trò lạy thầy còn sống, thì đứng hướng vào vị đó, chấp
hai tay ấn Tý, xá 1 xá, rồi lạy 2 lạy đứng theo lối phủ phục, lạy xong xá 1 xá.
Chúng ta nhớ, trong tất cả
cách lạy thời ĐĐTKPĐ, hai tay phải bắt ấn Tý, vì ấn Tý là ấn của ĐĐTKPĐ.
III . Giải thích các từ ngữ đã dùng :
Tại sao có 3
thời kỳ phổ độ ?
Bởi vì từ
khi xuất hiện loài người trên mặt địa cầu nầy, Đức Chí Tôn và Đức Phật Mẫu
cho 100 ức nguyên nhân giáng trần để khai hóa nhơn loại. (1 ức = 100 000)
Số nguyên nhân ấy khi sống
nơi cõi trần, ăn thực phẩm của cõi trần nên bị qui phàm, không thể trở về được
với Chí Tôn và Phật Mẫu. Đức Chí Tôn thương xót, mở ra Nhứt Kỳ Phổ Độ để cứu độ
các nguyên nhân nầy.
* Các tôn giáo lớn thuộc
Nhứt Kỳ Phổ Độ mở ra vào thời thái cổ gồm :
- Nhiên Đăng Cổ Phật mở
Phật giáo ở Ấn Độ.
- Brahma Phật mở đạo Bà La
Môn ở Ấn Độ.
- Thái Thượng Đạo Tổ mở
Tiên giáo ở Trung hoa.
- Vua Phục Hy khởi đầu Nho
giáo ở Trung hoa.
- Thánh
Moïse mở Do Thái giáo ở nước Do Thái.
Các tôn giáo nầy chỉ cứu
độ được 6 ức nguyên nhân, nên vẫn còn 94 ức nguyên nhân bị đọa trần.
Đức Chí Tôn lại thương
xót, nên mở ra Nhị Kỳ Phổ Độ để tiếp tục cứu độ các nguyên nhân còn lại.
* Các tôn giáo lớn thuộc
Nhị Kỳ Phổ Độ mở ra vào thời thượng cổ, gồm :
- Phật Thích Ca mở Phật
giáo ở Ấn Độ.
- Lão Tử mở Tiên giáo ở
Trung hoa.
- Khổng Tử chấn hưng Nho
giáo ở Trung hoa.
- Chúa Jésus mở Thiên Chúa
giáo ở Do Thái.
Các tôn giáo kỳ nầy cứu độ
được 2 ức nguyên nhân.
Như vậy, số nguyên nhân
còn bị đọa trần là 92 ức.
* Đức Chí Tôn mở lòng đại
từ đại bi lần chót, khai Tam Kỳ Phổ Độ tại nước Việt Nam, gọi là Đại Đạo Tam Kỳ
Phổ Độ hay Đạo Cao Đài, kéo dài 700 ngàn năm, để tận độ 92 ức nguyên nhân còn bị đọa trần.
Đây là lần cứu độ chót,
nếu các nguyên nhân không giác ngộ tu hành, không trở về được cõi TLHS thì
không còn kêu ca hay trách móc vào đâu được nữa.
Home [ 1 ] [ 2 ] [ 3 ] [ 4 ] [ 5 ] [ 6 ] [ 7 ] [ 8 ] [ 9 ] [ 10 ] [ 11 ] [ 12 ] [ 13 ] [ 14 ] [ 15 ] [ 16 ] [ 17 ] [ 18 ] [ 19 ] [ 20 ] [ 21 ] [ 22 ] [ 23 ] [ 24 ]