Cẩm Nang Kinh - 2 / 6 (HT. Huỳnh Tâm - Biên khảo)


Thiên Ðế là vì Vua ở cõi Trời cầm quyền diệu hóa, điều động Phật, Thần, Thánh, Tiên, Nhựt, Nguyệt, Tinh tú trong không gian đồng vận hành hòa nhịp bởi Ðấng Tạo Hóa, Người là Thái Cực Thánh Hoàng một trong những Hồng danh Thượng Ðế hữu thể .
        Ðức Lão Tử nói rằng :
        " Ta suy diễn: thì cảm thấy Ðạo, lúc nào cũng có một thể, không đầu đuôi manh mối, thế mà nơi nào cũng có Ðạo đến. Ta trông lên
phía trên, không thấy phản chiếu ánh sáng, xem xuống phía dưới, không thấy ấn khuất bóng tối. Thật Ðạo lâng lâng trong sạch, hồn nhiên giản dị, mà chính Ðạo sanh Ðấng Tạo Hóa và ngôi của Ngài là Thái Cực. Ðó là chỗ Ðơn Kinh nói rằng: Vô cực sanh Thái Cực " .

        " Ðại La " Thiên Ðiều minh mông nhưng phán xét công bình như người làm lành hưởng phước duyên, kẻ ác dữ nhận tai họa v.v... Tuy lưới Trời cao và thưa nhưng không mảy nào chạy lọt qua khỏi phán xét. Luật thưởng phạt của Trời trên nguyên tắc đơn giản, không luật sư biện hộ hay cải án, không tòa án, không tra tấn, không lao tù, thế mà kết quả rất kỳ diệu, bởi người biết lưu tồn tinh anh của lành và từ chối được cái ác dữ .      

 Người Ðạo học, tu luyện sửa tánh có ý niệm Ðại La như Luật Ðạo Trời, vì họ đã thành đạt tất cả mọi cội sinh của linh hồn và họ hằng tiếp nhận quyền năng phán định của Ðấng cầm cân cứu rỗi (Thượng Ðế ) .

        [14] Thánh Thơ thi tập của Ðức Lý Ðại Tiên, Giáo Tông Thiêng Liêng Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ .

                        Chú niệm 2 :
" Hóa dục quần sanh ,
Thống ngự vạn vật " .

                        Thánh ca :
" Sanh thành người vật vô biên ,
Thống trị muôn loài mọi việc cầm tay " .

        Dẫn giải : Ðây là thời kỳ sơ khai Âm và Dương biến hóa ngũ sanh vạn vật muôn loài và cho sự sống như :

        - Thai sanh : Bào thai người và hạ thú .
        - Noãn sanh : Trứng nở thượng cầm, công trùng .
        - Thấp sanh : Môi trường và ẩm ướt .
        - Hóa sanh : Biến hình thay giống .
        - Thảo sanh : Hạt giống nẩy mầm .

        Mọi sự sống từ ấy thành hình cho nên Kinh Dịch nói rằng: " Thiên địa nhơn luân, vạn vật hóa thuần nam nữ giao cấu vạn vật hóa sanh " .     

            Như trước đây Trời có một thì trong sáng, Ðất có một thì nền vững, Thần có một thì linh thiêng, muôn loài có một thì phát triển và nối nhau tấn hóa, tất cả đều ở trong một thống ngự bởi đức Thượng Ðế mà thành .      

Từ khi Hóa Dục Quần Sanh, đồng cùng trong một thể phân thành ba yếu tố sống để tạo thành một nhơn hình như :
        Linh Hồn : Có điểm tánh linh do Trời phú cho, bởi thế kinh sách Ðạo Nho có câu : " Thiên mạng chi vị tánh linh hồn " như một nguyên thể năng lực thiêng liêng ở trong nhơn thể, có hình dáng hư hư thiệt thiệt là giềng mối của tánh mạng trung tâm của sự sống, mang tính thuộc về Thần .
" Ðại Ðạo gọi là Linh Hồn .
Phật Ðạo gọi là Chơn Như Diệu Tánh .
Thánh Ðạo gọi là Bổn Tánh .
Tiên Ðạo gọi là Ðiểm Linh Quang ."

        Nhục Thể : Là lớp võ cứng bên ngoài linh hồn, ngày nào linh hồn xa lìa thì võ cứng ấy sẽ bị hư hỏng và tan nát không dùng vào đâu được nữa. Nhục thể luôn luôn thay đổi theo Khoa học Vật lý chứng minh : Nhục thể đôi ba năm thay một lần nhưng vẫn giữ dạng tổng quát, chúng ta hãy xem vài tấp ảnh từ khi còn thơ ấu đến lúc trưởng thành và khi tuổi già nua thì rõ sự biến hóa của nhục thể, tuy nhục thể biến dịch nhưng linh hồn vẫn uyên nguyên và tồn tại không thay đổi, mang tính thuộc về Tinh .

        Nhị Xác Thân : Là một giao điểm của Linh hồn và Xác phàm để tạo ra xác thân thứ hai gọi là Thể Phách, đây là như trạm trung gian kết hợp hồn xác thành một thể, mục đích truyền ý chí linh hồn cho nhục thể thực hiện và thông đạt tri giác của ngũ quan vào linh hồn, mang tính thuộc về Khí .     
            Những thí nghiệm khoa học về tiền kiếp đều do Thể Phách xác chứng nhờ vậy mới có " Sanh nhi tri chí " .

                         Chú niệm 3 :
" Diệu diệu Huỳnh Kim Khuyết ,
Nguy nguy Bạch Ngọc Kinh " .

                        Thánh Ngôn Dạy Ðạo :
" Một tòa Thiên Các ngọc lầu lầu ,
Liền bắt cầu qua nhấp nhóa sao .
Vạn trượng then gài ngăn Bắc Ðẩu ,
Muôn trùng nhíp khảm hiệp Nam Tào .
Chư Thần chóa mắt màu thướng đổi ,
Liệt Thánh Kinh tâm pháp vẫn cao .
Dời đổi chớp ngăng, đoan đở nổi ,
Vững bền muôn kiếp chẳng hề sao ."
                        Thánh ca :
" Cửa Huỳnh Kim chạm vàng lộng lẫy ,
Thành Bạch Ngọc cẩn ngọc nguy nga ".

        Dẫn giải : Trên Thiên Ðế có cửa Huỳnh Kim Khuyết sơn phết những rồng vàng, đền đài cao vút, diệu vợi mênh mông, sáng rực rỡ tráng lệ và Kinh thành Thánh Hoàng cẩn những ngọc trắng trong, nguy nga vòi vọi, hai cõi ấy là trung tâm Càn Khôn, Vũ trụ bởi Thượng Ðế ngự trị. Nơi mà Ðấng háo sinh dưỡng dục đầy lòng từ ái, bao dung nhưng cương kỷ .

                        Chú niệm 4 :
" Nhược thiệt nhược hư ,
Bất ngôn nhi mặc, tuyên đại hóa " .
                        Thánh ca :
" Có đầy như thế : trống không ,
Mặc dầu không động nhưng mà đức cao " .

        Dẫn giải : Hình Trời xem như dày đặc thì lại như trống không, không gian im lìm phẳng lặng chẳn ai lên tiếng bảo vâng mà tuần tự hóa sinh bày rộng khắp cùng

         Sách luận ngữ có câu : " Thiên hà ngôn tại, tứ thì hành yên, vạn vật sanh yên ". Trời không nói mà có bốn mùa : Xuân, Hạ, Thu, Ðông vẫn xoay xuống cùng, muôn vật đều hóa sinh, Trời không nói âm thầm thực hiện kỷ năng phụng sự hữu ích cho muôn loài .

        Mọi vật ở Vũ trụ nầy có thừa không thiếu do cái trống không của tĩnh tạo thành hóa sinh không ngừng .

                        Chú niệm 5 :
" Thị không thị sắc,
Vô vi nhi dịch sử quần linh " .

                        Thánh ca :
" Không như có, có như không ,
Không thấy bày làm nhưng khiến thần linh ".

        Dẫn giải : Hình Trời xem thật trống không, mà trong không lại hóa ra có, có lại hóa ra không. Không thấy bày biện mà sai các vị Thần linh phải đến tuân mạng, ấy là Vô vi, trong sách Luận ngữ có câu : "Vô Vi Nhi Trị ".

        Nhơn sanh thường cằm nhầm sự có để nói Ðạo, nhưng Ðạo lại vì không, nên có nhiều mơ tưởng đạt Ðạo, bởi thế đời mới khổ vì vốn chẳng thấy sắc Ðạo. Ðạo vì có không cao xa, Ðạo vì không nhưng ở gần hai điều nầy là một phối hợp thường hằng, nên Ðức Chí Tôn thường dạy chỉ có tính Bát Nhã mới vượt lên trên " Thị không thị sắc " .

        Ðại Ðạo khởi động từ Vô vi mà phân tánh gọi là Ðấng kiến tạo vũ trụ, Ðấng là Giáo chủ của quần linh, là nhà kiến trúc, mỹ thuật bày biện cho vũ trụ nầy đẹp, không thấy Ðấng nhưng khiến bảo được thần linh xuất hiện bảo tồn vạn vật muôn loài .

                        Chú niệm 6 :
" Thời thừa lục long,
Du hành bất tức " .
                        Thánh ca :
" Vua Trời ngự cõi sáu rồng ,
Huyền huyền diệu diệu ngao du không ngừng " .

        Dẫn giải : Hằng cỡi sáu rồng đi giáp vòng Trời không hề ngừng nghĩ, kinh mới có câu: " Thừa Lục Long dĩ ngự thiên ". Sáu Rồng quẻ Càn thuộc Dương như :

        1 - Hào Sơ Cửu (Tìm Long) : Rồng ở trần gian lặng lẽ .
        2 - Hào Cửu Nhị (Hiện Long) : Rồng phụng sự muôn loài .
        3 - Hào Cửu Tam (Tịch Dương Long ) : Rồng vẫy vùng thắng khổ.
        4 - Hào Cửu Tứ  (Huyền Long) : Rồng xua đuổi vực thẩm .
        5 - Hào Cửu Ngũ (Phi Long) : Rồng bay về Trời .
        6 - Hào Thượng Cửu (Càng Long) : Rồng thành đạt .

        Sáu Rồng biến hóa huyền diệu và liên tục vận chuyển giáp vòng Trời .

                        Chú niệm 7 :
" Khí phân tứ tượng
Hoát truyền vô biên " .
                        Thánh ca :
" Ngôi Vô Cực phân chia Tứ Tượng ,
Lại vận hành nhựt nguyệt vô biên " .

        Dẫn giải : Ngôi Thái Cực sinh Lưỡng Nghi ( Âm Dương ) mặt Trời Thái Dương, mặt trăng Thái Âm. Lưỡng Nghi sinh tứ tượng, ( hành tinh và tinh tú ).

        1 - Thiếu Âm .
        2 - Thiếu Dương .
        3 - Thái Âm .
        4 - Thái Dương .

       Khí phân Tứ Tượng rộng chuyển không cùng, hóa sinh Bát Quái và phân chia bốn hướng Ðông, Tây, Nam, Bắc .

        " Hoát truyền " loan truyền sâu rộng giáo lý mầu nhiệm của Ðạo Trời, đã thành tựu như ý tự nhiên vận hành suốt ngày đêm, từ ánh sáng đến bóng tối đều tiếp nối lời truyền loan trong không gian vô tận .

                        Chú niệm 8 :
" Càn kiện cao minh
Vạn loại, thiện ác tất kiến ".

                        Thánh ca :
" Ngôi Càn cứng mạnh sáng cao ,
Muôn loài lành dữ sáng soi tỏ tường " .

        Dẫn giải : Ngôi Càn là Trời bền vững chắc hẳn không lây động, sáng suốt soi rõ và che chở cả muôn loài, Thượng Ðế cầm cân phán xét công bình nên mọi việc lành dữ của thế gian NGƯỜI đều thấy rõ .

                         Chú niệm 9 :
" Huyền phạm quảng đại ,
Nhứt toán họa phước lập phân " .

                        Thánh ca :
" Phạm vi diệu diệu huyền huyền ,
Lành dữ định tội phước ban từ tằng " .

        Dẫn giải : Phép huyền diệu rộng lớn soi khắp cùng thấu hiểu cuộc sống Trần gian lành dữ, luật Ðạo Trời phán xét công bình tội đọa, phước ban không tăng giãm bởi cân chuẩn tắc từ Ðạo Luật Thiêng Liêng, kỳ diệu ở chỗ không Tòa án, không Luật sư biện hộ và cũng không nhà tù cải tạo, thế mà Nhân loại kính trọng Ðức tin làm lành tránh ác, bởi tự lương tâm phán xét như luật Trời hữu sinh .

                        Chú niệm 10 :
" Thượng chưởng tam thập lục Thiên,
Tam Thiên Thế Giái ".

                        Thánh ca :
" Trên soi ba sáu (36) cung Trời ,
Ba ngàn thế giới cũng cầm trong tay " .

        Dẫn giải : Trên thượng giới Chí Tôn chưởng quản ba mươi sáu Thiên Cang [ 36 Cung Trời ] và Tam Thiên Thế Giái ) 3000 ) .
Chia thành : Ðại Thiên thế giới, Trung Thiên thế giới và Tiểu Thiên thế giới .

         Ba mươi sáu Thiên Cang là Ba mươi sáu cõi Thiên tào ấy là căn bản của Thiên Cang, mỗi cõi có một vị Thiên Quân chưởng quản .      
            Ba ngàn Thế giới được chia cho Thiên Tiên một ngàn, Ðịa Tiên một ngàn và Nhơn Tiên một ngàn .

        36 Chưởng Quản Thiên Cang :
        1 - Thiên Khôi Cao Viển .
        2 - Thiên Càn Huỳnh Chơn .
        3 - Thiên Cơ Hư Xương .
        4 - Thiên Gian Kỷ Xương .
        5 - Thiên Vọng Tốc Công Hiến .
        6 - Thiên Hùng Thi cối .
        7 - Thiên Mảnh Tôn Ất .
        8 - Thiên Oai Ly Báo .
        9 - Thiên Anh Thâu Nghĩa .
       10 - Thiên Thới Trần Khảm .
       11 - Thiên Phú Lê Tiên .
       12 - Thiên Mảng Phương Bảo .
       13 - Thiên Cô Thiền Tú .
       14 - Thiên Thương Lý Hồng Nhơn .
       15 - Thiên Huyền Vương Long Hậu .
       16 - Thiên Thiệp Ðăng Ngọc .
       17 - Thiên Ám Sỹ Tân .
       18 - Thiên Hản Tà Chánh Ðạo .
       19 - Thiên Không Ðiển Thông .
       20 - Thiên Tốc Ngô Hốt .
       21 - Thiên Vi Sử Tư Thành .
       22 - Thiên Sác Nhiêm Lai Sính .
       23 - Thiên Vi Hồng Thanh .
       24 - Thiên Cựu Ðơn Bá Châu .
       25 - Thiên Thôi Cao Khảo .
       26 - Thiên Thọ Chúc Thành .
       27 - Thiên Kiêm Vương Hổ .
       28 - Thiên Bình Bốc Ðông .
       29 - Thiên Tội Giao Công .
       30 - Thiên Tổ Ðường Thiên Chánh .
       31 - Thiên Ðại Thân Lễ .
       32 - Thiên Lao Văn Xáng .
       33 - Thiên Huệ Trương Trì Hùng .
       34 - Thiên Bạch Tất Ðức .
       35 - Thiên Khóc Lựu Ðại .
       36 - Thiên Xão Trình Tam Ích .

        Ðức Chí Tôn truyền giảng trong Thánh Ngôn rằng :     
             " Cả kiếp luân hồi thay đổi từ trong vật chất mà ra thảo mọc đến thú cầm, loài người phải chuyển kiếp ngàn ngàn, muôn muôn lần mới đến địa vị Nhơn phẩm. Nhơn phẩm nơi thế nầy còn chia ra nhiều phẩm nữa, như hạng Ðế Vương nơi trái địa cầu 68 nầy chưa đặng vào bực chót của địa cầu 67. Trong địa cầu 67 nhơn loại cũng phân ra nhiều đẳng thứ, được xem như mỗi kiếp sinh đều chuẩn bị luân hồi và thăng hoa còn tùy chúng sanh định đoạt ."      

            Sự phúc lạc và quí trọng của mỗi địa cầu càng tăng thêm mãi cho tới Ðệ Nhứt Cầu rồi Tam Thiên Thế Giái. Qua khỏi Tam Thiên Thế Giái thì mới đến Tứ Ðại Bộ Châu. Qua Tứ Ðại Bộ Châu mới vào đặng Tam Thập Lục Thiên .

                         Chú niệm 11 :
" Hạ ốc thất thập nhị Ðịa,
Tứ đại bộ châu " .
                        Thánh ca :
" Dưới cai quản bảy mươi hai ( 72 ) từng đất ,
Lại xem luôn bốn hướng lớn lao ".

        Dẫn giải : Ðấng Tạo hóa, nắm bảy mươi hai (72 ) Ngôi Ðịa Sác và Tứ Ðại Bộ Châu lớn trong cõi Trần Hoàn Thế Giới . Bảy mươi hai ngôi Ðịa sác ấy mỗi ngôi có một vị Tinh Quân chưởng quản .      

Bảy mươi hai ngôi Ðịa sác cũng tùng mạng lịnh nơi Bắc Ðẩu mà thi hành theo bổn phận trong Càn khôn Võ trụ và cai quản luôn Tứ Ðại Bộ Châu như :
        - Ðông Thằng Thần Châu .
        - Tây Ngưu Hạ Châu .
        - Nam Thiên Bộ Châu .
        - Bắc Cú Lư Châu .

         72 Chưởng Quản Ngôi Ðịa Sác trong Tứ Ðại Bộ Châu :
        Ðông Thằng Thần Châu :
        1 - Ðịa Khôi Trần Kế Chơn .
        2 - Ðịa Sác Huỳnh Kiến Chơn .
        3 - Ðịa Vỏng Ðoàn Thành .
        4 - Ðịa Kiệt Hồ Bá Nhan .
        5 - Ðịa Hùng Lỗ Tụ Ðức .
        6 - Ðịa Oai Tu Thành .
        7 - Ðịa Anh Tôn Tường .
        8 - Ðịa Kỷ Vương Bình .
        9 - Ðịa Mảnh Bá Hửu Hoạn .
       10 - Ðịa Chi Hoa Cao .
       11 - Ðịa Chanh Khảo Cao .
       12 - Ðịa Tịch Lý Toại .
       13 - Ðịa Hạt Ly Hoành .
       14 - Ðịa Cường Hạ Tường .
       15 - Ðịa Ám Dư Trung .
       16 - Ðịa Phụ Bảo Lương .
       17 - Ðịa Hồ Hổ Chi .
       18 - Ðịa Tá Huỳnh Bành Khánh .

       Tây Ngưu Hạ Châu :
       19 - Ðịa Hưu Trương Kỳ .
       20 - Ðịa Linh Quách Kỷ .
       21 - Ðịa Phó Kim Nam Ðạo .
       22 - Ðịa Vi Trần Nguơn .
       23 - Ðịa Huệ Xá Khôn .
       24 - Ðịa Ban Tang Thành Ðạo .
       25 - Ðịa Mạc Châu Canh .
       26 - Ðịa Xương Tề Công .
       27 - Ðịa Cường Hoách Chi Nguơn .
       28 - Ðịa Phi Diệp Dung Trung .
       29 - Ðịa Cẩu Cố Tông .
       30 - Ðịa Xảo Lý Xương .
       31 - Ðịa Minh Phong Kiết .
       32 - Ðịa Tấn Từ Kiết .
       33 - Ðịa Thối Phàm Hoán .
       34 - Ðịa Mảnh Trác Công .
       35 - Ðịa Thoại Khổng Thành .

      Nam Thiên Bộ Châu :
       36 - Ðịa Châu Giao Kim Tú .
       37 - Ðịa Ân Ninh Tam Ích .
       38 - Ðịa Di Dự Trí .
       39 - Ðịa Lý Ðông Tranh .
       40 - Ðịa Tuấn Viên Ðảnh Tường .
       41 - Ðịa Lạc Uông Tường .
       42 - Ðịa Thiệp Canh Nhân .
       43 - Ðịa Tốc Hình Tam Sang .
       44 - Ðịa Trần Khương Trung .
       45 - Ðịa Kế Khổng Thiên Châu .
       46 - Ðịa Ma Lý Dược .
       47 - Ðịa Yêu Thiên Cung .
       48 - Ðịa U Ðoạn Thanh .
       49 - Ðịa Phụ Môn Ðạo Chánh .
       50 - Ðịa Tịch Tổ Tâm .
       51 - Ðịa Không Tiêu Ðiển .
       52 - Ðịa Cô Ngô Tử Ngọc .
       53 - Ðịa Kim Khuôn Ngọc .
       54 - Ðịa Ðăng Thới Công .

        Bắc Cú Lư Châu :
       55 - Ðịa Giác Long Hổ .
       56 - Ðịa Tư Tống Lộc .
       57 - Ðịa Tán Quan Bân .
       58 - Ðịa Bình Long Thành .
       59 - Ðịa Tốn Hùng Ô .
       60 - Ðịa Nô Không Ðạo Lảnh .
       61 - Ðịa Sác Trương Hoán .
       62 - Ðịa Ác Lý Tình .
       63 - Ðịa Xú Từ Sơn .
       64 - Ðịa Số Các Phương .
       65 - Ðịa Âm Tiêu Long Lân .
       66 - Ðịa Hình Tấn Tường .
       67 - Ðịa Tán Võ Viển Công .
       68 - Ðịa Liệt Phan Bông .
       69 - Ðịa Kiện Diệp Cảnh Xương .
       70 - Ðịa Bao Tất Hóa .
       71 - Ðịa Tắc Tôn Kiết .
       72 - Ðịa Cẩn Trần Mộng Canh .

                        Chú niệm 12 :
" Tiên Thiên, Hậu Thiên,
Tịnh dục Ðại Từ Phụ " .
                        Thánh ca :
" Chủ Trời Trước, chủ Trời sau ,
Do luật động tịnh mang ơn cha lành " .

        Dẫn giải : Ngôi Tiên Thiên có trước đời Hồng hoang, ngôi Hậu Thiên có sau khi Trời đất đã định rồi. Ðại Từ Phụ trên ngôi Thiên Ðế từ thời trước đến thời sau cũng một Ðấng Cha lành trong Càn Khôn Thế giới với sự yên lặng để lấy sức háo sinh nuôi dưỡng và thương yêu vạn vật muôn loài như nhau và [ Tịnh Dục ] trong sách Trung Dung dạy rằng :
" Vạn vật tịnh dục, nhi bất tương hại ".

         Ý nói : Muôn vật đều sanh mà không giết hại lẫn nhau .

                        Chú niệm 13 :
" Kim ngưỡng, cổ ngưỡng
Phổ Tế, Tổng Pháp Tông " .

                        Thánh ca :
" Xưa nay một dạ tín thành ,
Qui hồi các pháp nhơn sanh về lành " .

        Dẫn giải : Ðời nay và đời xưa cùng một dòng sinh tín ngưỡng, Ðức tin vẫn trên lưu truyền nhờ có Ðấng Thượng Ðế cầm quyền công lý phân minh, Phổ độ và bảo thủ, truyền bá mọi pháp môn. NGƯỜI đức rộng háo sanh muôn loài và NGƯỜI hiện hóa qua nhiều hình thể lập giáo khác nhau, tất cả mọi sinh thành cùng một Ðấng tối thượng .

        Luật Ðạo chính truyền vẫn còn đó và nguyên vẹn, trước sau không thay đổi, luật Trời trên mục đích phụng sự nhơn sanh và gợi nhớ qui hồi cựu vị mà Ðấng Chúa Cha hằng mong mỏi .

                        Chú niệm 14 :
" Nãi Nhựt Nguyệt Tinh Thần chi quân ,
Vi Thánh, Thần, Tiên, Phật chi chủ " .

                        Thánh ca :
" Cha Trời sanh Tam Quang Tam Bửu ,
Hiệp Ngũ chi thống nhựt Ðạo mầu " .

        Dẫn giải : Ðức Thượng Ðế điều hành vũ trụ, sai bảo trên không gian như mặt Nhựt, mặt Nguyệt, Tinh tú phân định ngày đêm sáng tối theo từng sát na vận hành, biến đổi tiếp nối không ngừng, NGƯỜI cũng là Chủ Tể của Thánh, Thần, Tiên, Phật và toàn linh, nên Thượng Ðế tuyên bố từ khởi đầu khai Ðạo rằng :
" Trên Trời làm chủ một mình Ta ,
Nhánh nhóc chia Ba cũng một Già .
Phải mượn nhiều ngôi mà giáo Ðạo ,
Xét coi cho kỷ có ai mà ? .

        Cha Trời sanh hóa vạn vật muôn loài nhờ có Tam Quang (Ba thứ sáng mặt Trời, Trăng và Tinh Tú, và Tam Bửu: Tinh, Khí, Thần) .
         Ðức Chí Tôn là Chủ của Tam giáo, Ngũ chi và nay NGƯỜI công bố thành một Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ vô biên .

                        Chú niệm 15 :
" Trạm tịch chơn đạo ,
Khôi mịch Tôn nghiêm " .

                        Thánh ca :
" Ðạo Trời mịt mịt cao sâu ,
Ngôi Thầy, Cha dạy con về nẻo chơn ".

        Dẫn giải : Trong lặng lẽ, Hư vô có nền Chơn Ðạo rộng lớn minh mông, do Ðấng Tôn Nghiêm lo toan cứu rỗi toàn linh . Ðạo Trời mịt mịt như trạng thái tĩnh mà lại cao sâu bởi do động biến hóa vô cùng tận, như không thấy ai xây dựng lại thành hình và thay cũ đổi mới, bảo cổ canh tân liên tục cho phù hợp với thời gian .

                        Chú niệm 16 :
" Biến hóa vô cùng ,
Lữ truyền Bửu Kinh dĩ giác thế " .

                        Thánh ca :
" Chơn thần Thầy hóa muôn muôn ,
Ði truyền kinh báu quí nhơn ngọc ngà " .

        Dẫn giải : Ðạo Trời biến hóa và chuyển đổi theo vận tốc dung hòa để phù hợp từ cũ sang mới, nhưng mọi việc được hoàn thành rất nhanh chóng .

         Lưu hành Kinh Ngọc quí báu, truyền bá khắp cùng thế giới và công bố Ðạo Trời cho muôn loài biết thấu, trợ đời thức tĩnh và giúp người ngộ Ðạo, những lữ hành Ðạo sĩ lên đường truyền loan tin mừng Bửu Kinh đã đến thế gian, chơn truyền muôn pháp sáng như ngọc ngà, kêu gọi vạn vật muôn loài đến nhận lãnh phương tiện giải thoát ra khỏi mê muội .

                         Chú niệm 17 :
" Linh oai mạc trắc,
Thường thi thần giáo dĩ lợi sanh " .

                        Thánh ca :
" Chuông giác ngộ giọng kêu huyền diệu ,
Giáo dẫn đời hữu ích quần sanh ".

        Dẫn giải : Ðức Thượng Ðế uy linh tột cùng, tính đức oai nghiêm chẳng lường, Ðấng dìu dẫn muôn loài qua lời dạy diệu mầu như Thánh Ngôn và Thi văn, nhằm trợ lực chúng sanh hiểu Ðạo biết Ðời mà tu hành đạt vị .
Ðấng mượn tiếng chuông huyền linh để gọi mời quần sanh tìm phương độ rỗi hữu ích .

                        Chú niệm 18 :
" Hồng oai, Hồng từ ,
Vô cực, vô thượng " .

                         Thánh ca :
" Oai linh từ thiện ơn Trời ,
Bao la cao rộng không ranh không bờ " .

        Dẫn giải : Ðức uy linh lớn, Từ bi lớn, Ðức cao không cùng, Tình yêu thương của NGƯỜI lòng lọng vô biên, không bực nào sánh được vì tính cao thượng của thể Pháp .

        Ðấng hữu thể toàn thiện trải rộng không gian vô bờ bến để hy vọng muôn loài tiếp nhận oai Thiên mà thành như Ðấng .

                        Chú niệm 19 :
" Ðại Thánh, Ðại nguyện, Ðại Tạo Ðại Bi " .

                        Thánh ca :
" Ðức Thánh rộng thệ nguyền ơn lớn ,
Ân tạo Trời bí ẩn bí quan " .

        Dẫn giải : Ðại Thánh mở rộng thênh thang, Ðại nguyện bao la đại ái, Ðại bi hỉ xả vô cùng, Ðức Thánh tạo hóa thế giới đại đồng, phụng sự muôn loài là nghĩa vụ lớn, Ðấng Tạo hóa vẫn trong âm thầm xây dựng và bồi đắp sự hiện hữu .

                        Chú niệm 20 : 
" Huyền Khung Cao Thượng Ðế ,
Ngọc Hoàng tích phước hựu tội .
Ðại Thiên Tôn " .
                        Thánh ca :
" Thượng Thiên trên cái khung đen ,
Ngọc Hoàng xá tội ban ơi cầm quyền " .

        Dẫn giải : Vồm Trời cao vòi vọi thâm thẩm có Ðức Ngọc Hoàng cầm quyền cứu rỗi ban phước và xá tội cho cả vạn vật muôn loài .      
            Ðấng là kho tàng Ðức tin rộng lớn chứa phước lành ân ban cho nhơn sanh đồng cộng hưởng và Ðấng lập ra phép Hựu Tội bao dung .      
            Ðấng Ngọc Hoàng là Ðại Thiên Tôn mới có uy linh ân ban tứ phước cho nhơn sanh .

         Sách Âu học còn luận về Huyền Khung :
" Huyền khung bỉ thương tắc xưng Thượng Ðế ".

         Huyền khung thửa sanh đều xưng là Thượng Ðế. Ðức Ngọc Hoàng ban phước tha tội là vị Ðại Thiên Tôn, ngày thửa sanh ấy Trời che phủ khắp cả thế giới không còn chi trên cả nên mới gọi là ( Cao Thượng Ðế Ðại Thiên Tôn ) .

         Ngọc Hoàng khai mở dòng Ðạo từ phương đông biến hiện hữu thể hòa nhập Phương Tây ứng dụng phù hợp phong hóa thế gian, nhưng trên thực tế dòng Ðạo vẫn là nguyên thủy. Ngày nay sự giao lưu, suy nghĩ của loài người tuy có gần nhau nhờ lý luận, Khoa học, văn hóa, ngôn ngữ, cách nhìn và cảm nhận, nhưng vẫn trong sự giới hạng vì tính năng của con người chưa vượt qua tầm háo sinh của Ðấng Tối Thượng .

         Chú niệm :
" Nam mô Cao Ðài Tiên Ông Ðại Bồ Tát Ma Ha Tát " [15] .

        Ðêm 15 tháng 02 Ðinh Hợi (1947) Ðức Ngự Mã Thiên Quân ( Ðức Hộ Pháp Phạm Công Tắc ) truyền dạy rằng :
        " Thánh ý của Ðức Chí Tôn khai mở Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ Tam giáo qui nguyên, Ngũ chi phục nhứt là muốn dung hòa tâm lý toàn cả con cái của Người để cứu vãn trọn 92 ức nguyên nhân, vì thể mà bị sa nơi đây. CHÍ TÔN đã đại từ đại bi chỉ rõ căn nguyên và ban ơn cho ta, dạy dỗ cho ta để đoạt ngôi vị là phải trau luyện Tinh hiệp với Khí, Tinh Khí huờn Thần, là cơ huyền bí để mà đắc đạo vậy ..... " .

        Ðêm 15 tháng 03 năm Ðinh Hợi (1947) Ðức Hộ Pháp Truyền Bí Pháp dạy rằng :
        " Chúng ta thấy Ðại Từ Phụ lấy ba Tôn giáo: Nho, Thích, Ðạo làm cơ quan duy nhứt, dầu về phần Thiêng Liêng hay hữu hình cũng vậy để làm bí mật chơn truyền dìu dắt linh hồn và thi hài của chúng ta và là một phương pháp đoạt kiếp giải thoát linh hồn. Nho lấy Nhơn nghĩa làm căn bản, Ðạo lấy công chánh làm căn bản. Thích lấy bác ái từ bi làm căn bản. Ba triết lý ấy hiệp lại vừa lo phần đời và phần Ðạo, xác hồn chúng ta đi đến tận con đường mà Ðức Chí Tôn đúng chờ đợi các con cái hiệp một cùng Người ... " .

        Dẫn giải : Chí tâm thành kỉnh hướng vọng khấn nguyện trước Ðức Chí Tôn, lòng thành tín ngưỡng Ðấng toàn năng cao cả tuyệt đối, Tiên Ông Giáo chủ Phật, Tiên, Thánh, Thần bởi đức trọng cứu rỗi vạn vật muôn loài đồng chứng quả .
        Thượng Ðế thương yêu Nhơn loại, lấy thân hạ mình vào bậc thấp hèn như Tiên Ông chứng quả và lấy Hồng danh Cao Ðài lập thành chế độ công bình, Ðạo vị nhân sinh .

        Theo chú niệm trên : Ðức Cao Ðài Tiên Ông đề ra mục đích và tôn chỉ rất rõ, qui Tam Giáo và hiệp Ngũ Chi thành Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ và đích thân NGƯỜI làm Giáo Chủ Thiêng Liêng .

        [15] - Ba lạy hướng về Ðức Chí Tôn như sau :
        (Mỗi lạy 4 gật X 3 lạy = 12 gật) nhớ mỗi lạy phải chú niệm : " Nam mô Cao Ðài Tiên Ông Ðại Bồ Tát Ma Ha Tát " .

THÍCH GIÁO

Nhiên Ðăng Cổ Phật Chí Tâm Qui Mạng Lễ
( Giọng Nam Xuân )

        " Hỗn độn Tôn Sư ,
        Càn Khôn Chủ Tể .
        Qui Thế giái ư nhất khí chi trung ,
        Ốc trần huờn ư song thủ chi nội .
        Huệ đăng bất diệt ,
        Chiếu Tam thập lục thiên, chi quang minh .
        Ðạo pháp trường lưu ,
        Khai cửu thập nhị Tào chi mê muội .
        Ðạo cao vô cực ,
        Giáo xiển hư linh .
        Thổ khí thành hồng ,
        Nhi nhứt trụ xang thiên .
        Hóa kiếm thành xích ,
        Nhi tam phân thác địa .
        Công tham Thái cực ,
        Phá nhứt khiếu chi huyền quang .
        Tánh hiệp vô vi ,
        Thống tam tài chi bí chỉ .
        Ða thi huệ trạch ,
        Vô lượng độ nhơn .
        Ðại bi Ðại nguyện ,
        Ðại Thánh Ðại Từ .
        Tiên Thiên chánh Ðạo ,
        Nhiên Ðăng Cổ Phật .
        Vô vi xiển giáo Thiên Tôn " .

        Niệm :  Nam mô Nhiên Ðăng Cổ Phật Ðại Bồ Tát Ma Ha Tát .

                                    Chú niệm 1 :
" Hỗn độn Tôn Sư,
Càn Khôn Chủ Tể " .
                                    Thánh ca :
" Ngôi Tôn sư sanh từ vô thỉ ,
Chủ Càn khôn nhiếp lý âm dương ".

        Dẫn giải : Vũ trụ ở vào thời kỳ mù mù mịt mịt, minh minh, mông mông chưa có trật tự. Thì Khí Hư Vô là Ðức Nhiên Ðăng nguyên Tôn sư sanh thời hồng hoang trống rỗng gọi thời hỗn độn, NGƯỜI vâng lịnh Trời làm Chủ tể một cảnh Càn Khôn, Ngài đem bản thể Ðạo Hư Vô, vạch ra mục đích sống cho Ðời biết Ðạo, Ðạo hữu thể từ thời Vô Cực, Hỗn Nguơn .

        Ngài là một Ðấng Thầy trong đời hỗn độn, Người đến khi Trời Ðất đã phân ngôi, Ðạo thành từ Âm Dương do khí Hư vô biến hóa và Ngài cằm quyền ba ngàn thế giới qui thành một mối khí Hư Vô, bởi vậy Ðấng là Càn Khôn Chủ Tể .

        Ngôi Tôn Sư là bậc THẦY của muôn loài, NGƯỜI sinh ra từ khi trống không cho đến ngày thành tựu làm Chủ Càn khôn thế giới và vận chuyển Âm Dương hóa sinh, khi mọi loài hóa sinh hoàn chỉnh Ðức Tôn Sư [ Thượng Ðế ] mới lập ra phương cứu độ Từ Bi trước tiên, để dạy sự lành và truyền lưu đời đời, còn gọi là Phật Giáo nguyên thủy .

                        Chú niệm 2 :
" Qui thế giái ư nhứt khí chi trung
Ốc trần huờn ư song thủ chi nội " .

                        Thánh ca :
Cả thế giới qui vào một mối ,
Khắp hồng trần nắm chặc trong tay ".



        Dẫn giải : Ðấng gom thâu tất cả mọi sự sống lập thành ba ngàn thế giới ( 3.000 ) và nắm tất cả cõi trần hoàn, vạn vật, muôn loài vào tay .    
  " Ốc trần huờn " là trung tâm của thất thập nhị địa cầu (72), tọa lạc ở cõi hậu thiên, nhờ mạch sống môi sinh của Âm Dương mà được chi phối hợp điều hòa, dưới sự che chở bởi Khí Hư Vô .

                        Chú niệm 3 :
" Huệ đăng bất diệt ,
Chiếu Tam thập lục Thiên, chi quang minh " .

                         Thánh ca :
" Ðèn trí tuệ cháy hoài không tắt ,
Vẫn sáng soi ba sáu (36) cõi Trời " .



        Dẫn giải : Ðèn Phật vẫn cháy sáng rực rỡ không tắt, không lu, luôn luôn chiếu rọi hướng vào ba mươi sáu cõi Trời.  Khối Ðại Linh Quang là Ðèn Phật được thắp sáng và cháy mãi soi rọi vào miền vô tận, Huệ đăng đã thắp sáng 36 cõi Trời, huyền diệu .

        Ngày nay chân lý trong nền Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ bao quát và trải rộng tính ý niệm Thần học của đăng ( đèn ) như đèn Trời hệ trọng .
        - Thiên đăng thắp lên từ Trời hóa sinh .
        - Nhiên đăng thắp lên từ Ðại Ðạo linh hồn bất diệt .
        - Thái cực đăng thắp lên từ Thiên bàn trí não .
        - Vô cực đăng thắp lên từ Tâm linh Bát Nhã .

                        Chú niệm 4 :
" Ðạo pháp trường lưu ,
Khai cửu thập nhị Tào chi mê muội "

                        Thánh ca :
" Ðạo pháp như nước chảy cuộn dòng ,
Khai khiếu các nguyên nhân hắc ám " .

        Dẫn giải : Mạch Ðạo pháp thông suốt như dòng nước vẫn chảy liên tục an lành và ẩn hiện tùy hoàn cảnh cứu độ cho chín mươi hai ức (92) Thiên Tước (linh căn) xuống cõi thế nhưng còn đương mê muội chưa tĩnh giấc .     
            Người tu thực hiện Ðạo tánh không khó nhưng đến trình độ kiến tánh nào phải dễ. Kiến tánh thành tựu nhờ thời gian khai thông mọi bế tắc của dòng đời, khi ấy ngộ tính rực sáng, mọi linh hóa sẽ quán triệt tự thành

 Bát Nhã .
        Ðến thời kỳ Khải mở Phổ Ðộ. Ðức Diêu Trì Kim Mẫu lập thế hóa sinh trần gian cho 96 ức nguyên nhân (vạn vật muôn loài) nhập thế và phân chia thứ cấp hóa linh, học Ðạo tu dưỡng tánh và bảo tồn linh căn để có ngày về quê xưa ngôi cũ (Thiên Ðàng) .

         Khải mở Phổ Ðộ có ba thời kỳ như sau :
        - Nhứt Kỳ Phổ Ðộ : Có 2 ức nguyên nhân đắc thành Ðạo trở về cõi Thiên Ðàn .
        - Nhị Kỳ Phổ Ðộ : Có thêm 2 ức nguyên nhân đắc thành chánh quả trở về cội xưa ngôi cũ .
            -  Tam Kỳ Phổ Ðộ : 24/12/1925 đích thân Ðức Chí Tôn ra thân độ rỗi 92 ức nguyên nhân còn lại đang bị đọa lạc nơi sông mê trần khổ .     
            -  Từ đây 92 ức nguyên nhân muốn về cội xưa ngôi cũ phải đem hết lòng dưỡng tánh học Ðạo thắng khổ và thật sự muốn chia tay cảnh sông mê, để vào trường thi Ðại Hội Long Hoa do Ðức Phật Di Lặc độ rỗi không bỏ một nguyên nhân nào .

                        Chú niệm 5 :
" Ðạo cao vô cực ,
Giáo xiển hư linh " .

                        Thánh ca :
" Ðạo vốn gọi thậm thâm diệu pháp ,
Giáo lý truyền nhờ cái thông linh " .

        Dẫn giải : Ðạo cao thâm vô cùng tận, Ngài lập Ðạo Phật dạy chúng sanh Hư Vô [ trống không ] diệu Pháp .

        Ðại Ðạo từ nguyên thủy của không ra có và hóa sinh vạn vật muôn loài từ thấp nhứt đến tầng cao độ vô lường, truyền dạy cái Hư không chi khí, đến khắp cùng cõi hằng sống và lưu truyền muôn kiếp vẫn một Ðấng Ðức Tin .     

 Ðạo vốn linh diệu Thể Pháp, Bí Pháp là nền tảng vững bền của Ðạo tạo Ðời và nhờ lời truyền giảng quý Ðấng khai khiếu tinh thông Thần học mở ra cho nhân loại những nhận diện vi diệu hiện hữu khắp cùng, không còn trong ẩn diệu như thời hồng hoang .

         Ðức Chí Tôn truyền giảng trên tám vạn bốn ngàn pháp môn khác nhau nhưng tất cả vẫn một con đường Ðạo thắng khổ, nhiều pháp môn như thể để tạo môi trường cấy sinh cho thích hợp từng căn cơ, nếu nhơn sanh thiếu vắng căn cơ Tâm Phật sẽ bị rơi ngoài khoảng cách quán chiếu pháp môn, tâm hồn trở nên bơ vơ lạc lối vào đường trần khổ và tiếp tục gánh cảnh luân hồi .

                        Chú niệm 6 :
" Thổ khí thành hồng ,
Nhi nhứt trụ xang thiên " .

                        Thánh ca :
" Vận tam muội phúng nên hồng ,
Ly trung hiệp nhứt, điều khôn nên Càn " .

        Dẫn giải : Nguyên khí đức hồng danh Thượng Ðế bay ra hóa dựng thành nền tảng một cây cột chống vững bầu Trới, và " Nhứt trụ xang thiên " một tiếng ầm vang hoá thành trụ chống đỡ bầu Trời, như vi diệu của đường xương sinh sống là một trong những kiến trúc tạo ra thân thể vạn vật muôn loài .

        Vận dụng tư tưởng vào chánh Ðạo (tam muội ) lập pháp thiền định để hoá đổi từ quẻ Càn thành Khảm Ly hiệp nhứt tính mạng sống sau khi luận lý khí hậu thiên thành tựu. Muốn đạt đến thiền định phải bảo trọng Ðạo nguyên căn và hợp nhứt hoán đổi từ Ly nên Càn .

                        Chú niệm 7 :
" Hóa kiếm thành xích ,
Nhi tam phân thác địa " .

                        Thánh ca :
" Kim khí luyện tây viên đến mực ,
Dưới đơn điền chiếc Khảm nên Khôn " .

        Dẫn giải: Hóa gươm làm nên thước, mà lấy ba phân đở vững giềng đất không rúng động, đó là Ðạo pháp vô biên .

        Bửu kiếm biến thành cây thước, phâm ba đoạn lập thành địa giới, dù cho kim khí tu luyện đến mức cũng đắc thành, muốn đắc thành phải có Phương Châm Luyện Kỷ ( truyền Pháp của Ðức Hộ Pháp Phạm Công Tắc ) khởi động đơn điền hoá Khảm nên Khôn ( thuật ngữ ).

                        Chú niệm 8 :
" Công tham Thái Cực ,
Phá nhứt khiếu chi huyền quang " .

                        Thánh ca :
" Công đức Phật sánh ngôi Thái Cực ,
Phá khiếu linh đặng một mới mầu " .

        Dẫn giải : Ðức Nhiên Ðăng khi mở Ðạo Phật công đức ấy sánh như Ngôi Thái Cực, Người lập giáo nuôi dưỡng, giáo hóa quần linh và kiến tạo thế giới thăng hoa, Ðức Thái Cực ca ngợi công đức nầy nhứt là đem cái diệu huyền truyền loan và đem ánh sáng quang minh đến cho muôn loài, công đức nầy được trọng như Ðấng háo sanh. Mỗi khi nhơn sanh mở được cửa Thiên Nhãn là đắc thành Ðạo, bởi đây là ánh sáng mầu nhiệm của Pháp Ðáp, như Trời sinh khiếu linh Thái Cực và Ðất sống loài người sinh khiếu linh Huyền Quang .

                        Chú niệm 9 :
" Tánh hiệp vô vi ,
Thống Tam Tài chi bí chỉ " .

                        Thánh ca :
" Tánh hòa với Thể Thiêng Liêng ,
Thiên, Ðịa, Nhơn gồm một mối cao siêu " .

        Dẫn giải : Thiên tánh hiệp Vô Vi " Thái Cực Hư Vô " tóm hết Trời, Ðất, Người là ý mầu nhiệm của Tam tài, tất thảy đều qui về một mối .      

Trời ban cho loài người Thiên tánh hiệp vô vi và trong thân sống có Tam tài của phần Trời, Ðất và Người. Khi nhân loại đạt được Thể Pháp và Bí Pháp sẽ làm chủ được linh thể tự tại như Trời .

                        Chú niệm 10 :
" Ða thi huệ trạch ,
Vô lượng độ nhơn " .

                        Thánh ca :
" Nhơn sanh nhuần gội ân dày ,
Hằng hà người đồng vượt khỏi bến mê " .

        Dẫn giải : Ðức Nhiên Ðăng ban ân lành, như Trời mưa gội nhuần độ rỗi nhân sanh, công đức vô bề bến không biết đâu mà đo lường, ân đức ấy không sử sách nào ghi chép, Người xuất hiện đã nhiều kiếp vẫn một vô lượng cứu nhơn sanh ra khỏi bến mê .

                        Chú niệm 11 :
" Ðại bi đại nguyện ,
Ðại Thánh Ðại Từ " .

                        Thánh ca :
" Bi quan, bi mẫn ... thệ nguyền ,
Ðức Thánh sáng chói, đức Nhơn rộng dày " .

        Dẫn giải: Ðức Nhiên Ðăng Cổ Phật lấy sự thương yêu vô tận để đãi ngộ ân cần với chúng sanh, thánh đức của NGƯỜI rực rỡ, đức nhơn thì từ bi mênh mông, đại nguyện của NGƯỜI phụng sự chúng sanh về cõi linh diệu .   
   - Sách có câu: " Phật ái chúng sanh, như Mẫu ái từ ". Phật thương chúng sanh như Mẹ thương con .

                        Chú niệm 12 :
" Tiên Thiên Chánh Ðạo ,
Nhiên Ðăng Cổ Phật .
Vô Vi Xiển giáo Thiên Tôn " .
                        Thánh ca :
" Nên Ðạo vốn từ nơi Nhứt Khí ,
Cổ Phật Nhiên Ðăng tạo tuyệt mầu .
Dạy Ðạo ấn chứng vô vi ,
Tổ sư Xiển giáo thiệt vì Thiên Tôn " .

        Dẫn giải : Ðức Nhiên Ðăng lập ra Ðạo Phật truyền bá Tiên Thiên Chánh Ðạo vô vi biến hữu vi, hoá không âm thanh sắc tướng, NGƯỜI là vị Phật tối cổ hồng danh Nhiên Ðăng là ngọn đèn Trời Chân lý và Ðạo hiệu " Xiển giáo Thiên Tôn " là truyền giảng chân lý Ðạo uyên nguyên vô cùng tận .     

 Ðấng là vốn từ Nhứt Khí sinh ra (Thượng Ðế ), chính là cội nguồn của hoá sinh vạn vật và muôn loài .
        Chú Niệm: " Nam mô Nhiên Ðăng Cổ Phật Ðại Bồ Tát Ma Ha Tát " [16]

        Dẫn giải: Ðức Thượng Ðế tá danh Nhiên Ðăng Cổ Phật (Ðèn Trời Chân Lý uyên nguyên) .

        [16] - Khi lạy hướng về Ðức Chí Tôn. Mỗi lạy 3 gật X 3 lạy = 9 gật và mỗi lạy niệm : " Nam mô Nhiên Ðăng Cổ Phật Ðại Bồ Tát Ma Ha Tát " .

TIÊN GIÁO

Thái Thượng Chí Tâm Qui Mạng Lễ
( Giọng Nam Xuân )
        Tiên Thiên khí hóa ,
        Thái Thượng Ðạo Quân .
        Thánh bất khả tri ,
        Công bất khả nghị .
        Vô vi Thái cực chi tiền ,
        Hữu thỉ siêu quần chơn chi thượng .
        Ðạo cao nhứt khí ,
        Diệu hóa Tam Thanh .
        Ðức hoán hư linh ,
        Pháp siêu quần Thánh .
        Nhị ngoạt thập ngũ ,
        Phân tánh giáng sanh .
        Nhứt thân ức vạn .
        Diệu huyền thần biến ,
        Tử khí đông lai .
        Quảng truyền đạo đức ,
        Lưu sa tây độ .
        Pháp hóa tướng tông ,
        Sản Tất Viên, Phương Sóc chi bối .
        Ðơn tích duy mang ,
        Khai Thiên Ðịa nhơn vật chi tiên .
        Ðạo kinh hạo kiếp ,
        Càn khôn hoát vận .
        Nhựt nguyệt chi quang ,
        Ðạo pháp bao la .
        Cửu hoàng tỉ tổ ,
        Ðại Thiên Thế giái .
        Dương tụng từ ân ,
        Vĩnh kiếp quần sanh .
        Ngưỡng kỳ huệ đức ,
        Ðại Thần Ðại Thánh .
        Chí cực chí tôn ,
        Tiên Thiên chánh nhứt .
        Thái Thượng Ðạo Quân ,
        Chưởng Giáo Thiên Tôn .

        Niệm :  Nam mô Thái Thượng Ðạo Tổ Tam Thanh Ứng Hóa Thiên Tôn  .

                        Chú niệm 1 :
" Tiên thiên khí hóa ,
Thái Thượng Ðạo Quân " .

                        Thánh ca :            
" Từ vô thỉ đã sinh Thái Thượng ,
Vốn thật là một khí Thinh thanh " .

        Dẫn giải : Ngôi Tiên Thiên hóa sinh khí Thái Hư, nguơn tụ ra khối nguyên khí Ðức Thái Thượng Ðạo Quân và khai lập Tiên giáo .       
            Ðấng đã hóa thành nhiều kiếp đeo đuổi sự nghiệp độ rỗi chúng sanh, bởi thế người đời gọi là Ðấng Ngũ Lão .

                        Chú niệm 2 :
" Thánh bất khả tri ,
Công bất khả nghị " .

                        Thánh ca :
" Ðức Thánh khó gẫm khó suy ,
Công cao khó tưởng, tài cao khó bì " .

        Dẫn giải : Thánh đức của NGƯỜI vô cùng tận, không thể đong lường biết trước được, bởi công đức cao dày ấy chẳng thể nào nghị luận và ghi chép ra đặng, sự nghiệp Ðạo đức của Ðấng cao vòi vọi và quyền năng vượt ra ngoài trí lự của loài người, bởi thế mới có câu " Thánh bất khả tri " .

                        Chú niệm 3 :
" Vô vi cư Thái Cực chi tiền ,
Hữu thỉ siêu quần chơn chi thượng " .

                        Thánh ca :
" Từ vô thỉ Ðạo không hình tướng ,
Ðến Hậu Thiên siêu việt tuyệt mầu " .

        Dẫn giải : Ðạo nguyên từ Vô vi trước Ngôi Thái Cực, khi Trời đất chưa phân và đến lúc Trời đất mở rộng thì vô vi có trước, gọi là đời Hữu Thỉ [ có trước ] hóa sinh Ðức Thái Thượng là Ðấng bề trên của quý Ðấng Thiêng Liêng Phật, Tiên, Thánh, Thần, Nhơn và tiếp nối Hậu Thiên biến hoá sự sống .

             Chú niệm 4 :
" Ðạo cao nhứt khí ,
Diệu hóa Tam Thanh " .

            Thánh ca :
" Cao nhờ ngươn khí tinh anh ,
Chơn Thần trong sạch hóa hình Tam Thanh " .

        Dẫn giải: Một Khí Ðạo vượt ra ngoài không gian cao rộng, rực rỡ cả bầu Trời Ðầt, Thiêng Liêng công bố phép huyền diệu từ nay biến hóa Tam Thanh, Tam giáo và Tam sắc .
           - Tam Thanh : Thái Thanh, Thượng Thanh, Ngọc Thanh .
           - Tam Giáo : Phật giáo, Tiên Giáo, Nho Giáo .
           - Tam Sắc : Vàng, Xanh, Ðỏ .

        Ðạo của Ðức Chí Tôn từ Nhứt Khí biến hóa ra Tam Thanh, Tam Giáo và Tam sắc trong hệ thống hành chánh Cửu Trùng Ðài, Chức sắc ba phái tương ứng đồng quyền, đồng phẩm trên một cấp và Họ Thánh đời nay được lưu truyền mãi mãi cho đến khi có Giáo Tông tiếp nối mới thay đổi Họ Thánh mới, riêng về Phái Nữ chỉ có một Họ Thánh là Hương (Thánh Ngôn).

        Ví du : Một gia tộc đời có Họ là Gustave, tên là Meillon lập gia thất sinh con có cháu, đương nhiên lập tờ khai sinh lấy Họ gia tộc là Gustave để lưu truyền Họ gia tộc đời đời, còn đặt tên riêng cho mỗi cá nhân thì tùy theo ý nghĩa đẹp của nó .

        Sau đó ông Gustave Meillon theo Ðạo Cao Ðài, có đủ công phu đạo đức và công nghiệp Ðạo phi thường, được ân phong phẩm Lễ sanh phái Thượng như vậy từ đây mang Họ Thánh là Thượng Meillon Thanh và được lưu truyền trong gia tộc đời đời. Nếu ngày sau trong gia tộc nầy có người cầu phong đương nhiên được truyền lưu Họ Thánh là Thượng. Bởi thế trong nền Ðạo Cao Ðài mới có ba Họ Thánh (Thái, Thượng và Ngọc ) là vậy .

                        Chú niệm 5 :
" Ðức hoán hư linh ,
Pháp siêu quần thánh " .

                        Thánh ca :
" Ðức trọng bởi Hư vô linh nghiệm ,
Ðạo cao vời trên các nhánh chi " .

        Dẫn giải: Ðạo đức của Ðấng sáng hơn cả Thần linh, Ðạo pháp vô tận hơn cả Tiên Thánh, Ðạo gốc Pháp cao siêu vời vợi trên mọi nhánh Chi. Có tất cả năm [5] Nhánh chi là : Phật Ðạo, Tiên Ðạo, Thánh Ðạo, Thần Ðạo, Nhơn Ðạo. Ðấng đức trọng bởi hư vô linh nghiệm tức là Chúa của Thánh thiện, Bồ tát Giác ngộ, Cứu rỗi và Giải thoát .

                        Chú niệm 6 :
" Nhị ngoạt thập ngũ ,
Phân tánh giáng sanh  " .

            Thánh ca :
" Tháng hai ngày vọng nhà Thương ,
Vô Cực Chơn Thánh phân thân giáng trần " .

        Dẫn giải : Năm thứ năm mươi hai, đời nhà Thương, nhằm ngày rằm tháng hai [ Nhị ngoạt thập ngũ ], Ðấng phân tánh giáng sanh thân phàm là Ðức Thái Thượng để phổ độ chúng sanh bởi thời nầy thường loạn lạc, nhơn sanh khốn khó vô cùng, NGƯỜI hướng dẫn Vua trị vì và dạy Dân biết Ðạo .

                        Chú niệm 7 :
" Nhứt thân ức vạn ,
Diệu huyền thần biến  " .

                        Thánh ca :
" Một thân biến thiên hình vạn trạng ,
Một Chơn linh diệu hóa Thần Tiên " .

        Dẫn giải : Một mình mà hóa sinh muôn ức vạn linh, NGƯỜI lấy phép huyền diệu như Thần biến hóa khôn thiên .
        - Sách sử Ðạo chép rằng :
        " Ðời nào cũng có Ðức Thái Thượng giáng sanh như :
        Ðời vua Huỳnh Ðế có hiệu là Quảng Thánh Từ, đời vua Văn Ðế có hiệu là Nhiếp Ấp Tử làm quan Trụ Hạ Sử, đời vua Khương Vương có hiệu là Quách Thúc Tử và đầu đời Hớn có hiệu là Huỳnh Thạch Công, vì Ðấng sinh do phép biến hóa vô cùng " .

                        Chú niệm 8 :
" Tử khí đông lai,
Quảng truyền Ðạo Ðức " .

                        Thánh ca :
" Tường vân bổng hiện phiá Ðông ,
Truyền kinh đạo đức giốc lòng độ nhân " .

        Dẫn giải : Lằng khí đỏ từ hướng Ðông bay ra loan truyền Kinh Ðạo đức .
        - Sách sử Ðạo chép rằng : " Ông Doãn Hi làm quan Lịnh Doãn bên ải Hàm Cốc biết xem mây gióng khí. Ngày kia trông thấy một vòng ngút đỏ tía từ hướng Ðông bay đến biết rằng có vì Thánh nhơn đến Ải, liền nghiêm chỉnh áo mão ra cửa mà tiếp rước. Chẳng bao lâu có Ðức Lão Tử cỡi Thanh ngưu bay đến, Ông liền vội vàng tiếp rước vào Ải đàm luận phép huyền diệu và được Ðức Lão Tử truyền giảng Ðạo Ðức Kinh hơn năm ngàn lời dư " .

                        Chú niệm 9 :
" Lưu sa tây độ ,
Pháp hóa tướng tông " .

                        Thánh ca :
" Thoạt qua tới phía Tây miền cát ,
Pháp Vô vi bỗng hóa Tướng tông " .

        Dẫn giải : Ðấng ở phía Tây độ rỗi nhơn sanh Trung Hoa rồi đi đến miền đất Lưu sa [ Cát chạy miền sa mạc Tây Á ], Ðấng cũng lấy phép huyền diệu hóa ra Tướng tông ông Huyền Nguyên, đến đâu Ngài cũng lấy Kinh Sám trong tâm giảng Ðạo độ đời, Ðấng còn để lại cho muôn đời dấu ấn Lão Tử Ðông Phương Giáo Chủ .

                        Chú niệm 10 :
" Sản Tất Viên, Phương sóc chi bối ,
Ðơn tích duy mang " .

                        Thánh ca :
" Trang Châu Phương Sóc sanh ra ,
Cũng đồng quan niệm với thời Lạc Quân " .

        Dẫn giải : Ngài Trang Tử sinh tại Trang Châu 298 qui tiên 369 trước Tây lịch. Người làm quan ở vườn Tất Viên nên người đời gọi là ông Tất Viên. Người truyền giảng giáo lý căn bản "Chí nhơn vô kỷ, Thần nhơn vô công, Thánh nhơn vô danh ".

        Ngài Trang Tử hoá thân Ðông Phương Sóc cùng thời bởi phép kim đơn huyền diệu, sinh thời Ngài Ðông Phương Sóc rất thông minh tu tại gia chứng quả nhờ phép thần thông ( Lá Ðào Ẩn Thân ) .

                        Chú niệm 11 :
" Khai Thiên Ðịa nhơn vật chi tiên ,
Ðạo kinh hạo kiếp " .

                        Thánh ca :
" Luyện đơn chỉ máy trường sinh ,
Ðạo trước Trời đất Nhơn sanh mới mầu " .

        Dẫn giải : Ðạo mở trước Trời đất, hoá sinh người rồi đến muôn loài, Ðạo trải rộng lưu truyền mãi mãi để hóa độ vạn linh. Ðạo trường sinh nhờ có phép Kim đơn cao trọng như là vị tổ của máy hóa sinh vạn vật muôn loài, ( Kim đơn là sự bền bỉ, sáng suốt ) .

                        Chú niệm 12 :
" Càn Khôn hoát vận ,
Nhựt nguyệt chi quang " .

                        Thánh ca :
" Càn Khôn chốt máy cao sâu ,
Âm Dương Nhựt Nguyệt thạnh suy tuần huờn " .

        Dẫn giải : Ðạo Trời xây vần lập thế vô tận, dụng mặt Nhựt mặt Nguyệt đem ánh sáng soi rọi hóa sinh dưỡng dục khắp cùng, một máy Trời vận hành chuyển động không phát âm thanh và cũng không ngừng nghĩ .      
            Quý Ðấng đắc quả thành Ðạo nhờ dụng thuật ngữ " Nhựt nguyệt chi quang " luyện Ðạo trên căn bản của Thể Pháp và Bí Pháp, bởi đây là một biệt truyền bất lập thành văn .

                        Chú niệm 13 :
" Ðạo pháp bao la ,
Cửu hoàng tỉ tổ " .

                        Thánh ca :
" Ðạo pháp bao gồm Cửu tổ " .

        Dẫn giải : Ðạo pháp trên vồm Trời bao la và truyền ra mãi mãi không ngừng, ở miền Tỉ tổ vô tận có Ðấng Cửu Hoàng đang ngự triều điều khiển Ðại Ðạo của Càn khôn vũ trụ và NGƯỜI dạy bảo, sai khiến cả Cửu tổ của vạn vật muôn loài .

        Sách Dương Tử có nói: " Con người khi ở trong bụng mẹ, lúc Khí tượng hình thì có tỉ là nơi chuẩn bị để hấp thụ bên ngoài thiên nhiên trước nhứt, cho nên gọi là ông tỉ tổ". Tỉ là mũi.

                        Chú niệm 14 :
" Ðại Thiên thế giái ,
Dương tụng từ ân " .

                        Thánh ca :
" Cõi Ðại Thiên ca tụng ân lành " .

        Dẫn giải : Vũ trụ nầy còn gọi là Ðại Thiên Thế giới, gồm có Tam Thiên : Thượng thiên, Trung thiên và Ðịa thiên. Ngoài ra còn có ba cõi Thượng giới, Trung giới và Hạ giới .

        Khi Ðức Thái Thượng Ðạo Quân hữu thể vào thời dương thì lời ca tụng ân lành được trỗi lên khắp cõi Ðại Thiên .

                        Chú niệm 15 :
" Vĩnh kiếp quần sanh ,
Ngưỡng kỳ huệ đức " .

                        Thánh ca :
" Hồng trần cứu vớt độ người, chúng sanh " .

        Dẫn giải : Trời cao thấu suốt Nhơn sanh muôn kiếp, nhơn sanh cũng đồng ngưỡng vọng cầu xin Ðấng bao dung ban truyền huệ đức để khởi đầu ra bể khổ và dứt chung cuộc hồng trần về ngôi cũ bình an. Quần sanh nhờ ân đức lớn vì Ðấng quyền năng cứu rỗi muôn loài .

                        Chú niệm 16 :
" Ðại thần đại thánh ,
Chí cực Chí tôn " .

                        Thánh ca :
" Thấu then Chí cực, Thần thành Kim Thân " .

        Dẫn giải: Ðại chơn linh tối thượng, Ðại Thánh mầu nhiệm và toàn thiện. Ðấng là Thượng Ðế hóa thân, cho nên Ðức Thái Thượng Ðạo Quân tôn vinh Thái Cực Chí Tôn.

        Ðấng truyền giảng giáo lý Ðại đức, Ðại tri, Ðại ái, Ðại lượng và Ðại hùng. Ðề cao tinh thần phổ độ và giáo hóa chúng sanh .

                        Chú niệm 17 :
" Tiên Thiên chánh nhứt ,
Thái Thượng Ðạo Quân .
Chưởng Giáo Thiên Tôn " .

                        Thánh ca :
" Nền Ðạo mở từ khi Nhứt Khí ,
Chức Thiên Tôn chấp chưởng Thần Tiên " .

        Dẫn giải : Ðấng là Vương Tôn hiệu Tiên Thiên Chánh Nhứt . Ðạo Giáo gọi là Thủ Nhứt, Thích giáo goị là Qui Nhứt, Nho giáo gọi là Oai Nhứt. Cho nên Ðức Thái Thượng Ðạo Quân chưởng quản Ðạo giáo Thiên Tôn và Ðấng là sự hiện thể của vạn loại muôn đời, Ðấng Thái Thượng Ðạo Quân là Vua Trời quyền năng thâm thẩm, nắm tất cả nguyên lý tạo lập vũ trụ và hóa sinh vạn vật muôn loài .

        Ðức Chí Tôn dạy rằng :
" Nhiên Ðăng Cổ Phật thị Ngã ,
Thái Thượng Nguơn Thỉ thị Ngã .
Thích Ca Mâu Ni thị Ngã ,
Kiêm viết Cao Ðài " .

        Thiên thơ truyền rằng: "Duy tinh Duy nhứt", Vũ trụ nầy chỉ có một Tôn giáo mà thôi, bởi thế Thượng Ðế đã truyền rằng :
" Thiên đắc nhứt dĩ Thanh ,
Ðịa đắc nhứt dĩ Ninh .
Nhơn đắc nhứt dĩ Thành " .

        Ðến lúc Trời, Ðất và Nhơn loại phải là một thì sự minh tịnh mới thành .
         Niệm : " Nam mô Thái Thượng Ðạo Tổ Tam Thanh Ứng Hóa Thiên Tôn " .
        - 3 lạy. Mỗi lạy 3 gật X 3 lạy = 9 gật, mỗi lạy niệm : Nam mô Thái Thượng Ðạo Tổ Tam Thanh Ứng Hóa Thiên Tôn " .

NHO GIÁO

Khổng Thánh Chí Tâm Qui Mạng Lễ
( Giọng Nam Xuân )
        Quế hương nội điện ,
        Văn thỉ thượng cung .
        Cửu thập ngũ hồi ,
        Chưởng thiện quả ư thi thơ chi phố .
        Bá thiên vạn hóa ,
        Bồi quế thọ ư âm chất chi điền .
        Tự lôi trữ bính linh ư phụng lãnh ,
        Chí như ý từ, tường ư ngao trụ .
        Khai nhơn tâm tất bổn ư đốc thân chi hiếu ,
        Thọ quốc mạch tất tiên ư trí chúa chi trung .
        Ứng mộng bảo sanh, Thùy từ mẫn khổ ,
        Ðại Nhơn, Ðại Thánh, Ðại Hiếu, Ðại Từ .
        Thần văn, Thánh võ, Hiếu đức trung nhơn ,
        Vương tân sách phụ .
        Nho Tông khai hóa ,
        Văn Tuyên Tư Lộc .
        Hoằng nhơn Ðế Quân ,
        Trừng chơn chánh quang .
        Bửu Quang từ tế Thiên Tôn .

        Niệm : Nam mô Khổng Thánh Tiên Sư Hưng Nho Thạnh Thế Thiên Tôn .

                        Chú niệm 1 :
" Quế hương nội điện ,
Văn thỉ thượng cung " .

                        Thánh ca :
" Ðầu Quê hương mùi bay thơm ngát ,
Gốc vốn là trên cõi thượng Thiên " .

        Dẫn giải : Thượng Cung có nội điện là nơi Ðức Văn Xương đang ở, có mùi quế hương thơm phức thoát ra, từ án thư và lam bào nhả ra mùi quế hương thanh cao để báo hiệu khởi truyền văn chương kinh sử. Mùi quế hương cao khiết ấy với những trang văn chương lời Thánh của Ðức Khổng Tử . Thượng cung có rất nhiều Tinh tú chỉ bổn mạng Thiêng Liêng và Quần linh, riêng ở vồm trời ấy có ngôi sao Thiên Trụ chính là nơi Ðức Văn Xương ngự, chốn ấy là Thượng cung rực rỡ ban truyền lời Thánh .

                        Chú niệm 2 :
" Cửu thập ngũ hồi ,
Chưởng thiện quả ư thi thơ chi phố " .

                        Thánh ca :
" Chín lăm lần xuống xuống lên lên .
Gieo trái Ðức, Văn chương, Nhơn nghĩa " .

        Dẫn giải : Ðức Văn Xương xuất Thượng Cung để nhận luân hồi độ chúng, Người xuống trần đến chín mươi lăm (95) kiếp sinh, để phụng sự trần bằng phương tiện gieo trái lành và lập đức Thánh nơi vườn văn thơ .    

            Trong kinh điển Ðạo Thánh ghi chép toàn lời thiện. Nhơn, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín, bởi thế Ðạo Thánh lấy Kinh điển làm vườn gieo trái đức hạnh và lấy sự việc phúc lạc làm giống cấy sinh trái ngọt ngon, Người trồng tỉa và nâng niu đức hạnh như vật quí bấu để mai sau lưu truyền cho đời, bởi thế mới có Tâm điền, biết vun bồi cột quế thơm tho, để phụng sự quần linh đồng hưởng cái ân đức ấy .
        Ðức Khổng Tử lập trung tâm hạnh đường làm cơ sở giáo dục lấy Văn hóa làm căn bản khai phóng dân trí .

                        Chú niệm 3 :
" Bá thiên vạn hóa ,
Bồi quế thọ ư âm chất chi điền " .

                        Thánh ca :
" Trăm lần phải sanh sanh hóa hóa ,
Vun quế hòe, âm đức, tâm điền " .

        Dẫn giải: Trăm ngàn lần hóa thân cũng lấy đức âm chất để gieo vào ruộng (Tâm Ðiền), vun bồi cội quế nẫy sinh đời đời và gìn giữ sự đồng hưởng cái không cùng của ruộng đất quế thơm tho ấy .    

         Người hiền nhân Ðạo đức vun bồi cây quế như công quả gieo âm chất hay âm đức là làm việc lành trong âm thầm không cần ai biết, cây quế ấy tiêu biểu cho sự cao quý và nhân đức của con người .

                        Chú niệm 4 :
" Tự lôi trữ bính, linh ư phụng lãnh " .

                        Thánh ca :
" Văn tự linh hơn sấm lôi ,
Linh hơn Linh Ðiểu mở thông Ðạo người " .

        Dẫn giải : Tự tiếng sấm phát ra ánh sáng tạo cho môi trường tìm hiểu và lưu lại như :
        Văn tự lần thứ nhứt. Ðời Thượng cổ văn tự được đặt ra và khởi đầu lối viết chữ bằng hình dung thắc gút nhớ việc trước sau .

         Văn thự lần thứ hai. Ðời Vua Phục Hi có Long Mã phụ đồ, vua Phục Hi vạch ra Bát Quái Ðồ chế ra văn tự .

        Văn thự lần thứ ba. Hoàng Ðế Huỳnh Ðức và Ðức Thương Kiết trí tuệ thông minh, xem được bầu Trời và hiểu biết mọi vận hành của Thinh tú, dưới đất thì khảo sát tìm dấu chim, chế thành văn tự chữ Nho. Khi văn tự hoàn chỉnh từ đó thiên hạ được mở mang cùng tấn hóa .

         Theo truyền sử viết : Văn tự chữ Nho hoàn chỉnh. Quỷ khóc bởi sợ ghi chép lời truyền giảng Ðạo đức của Thiêng Liêng, loài người theo Chơn Ðạo mà bỏ Tà Ðạo và Tà Ðạo rất sệ bị tận diệt .

         Ðến khi Ðức Khổng Phu Tử viết Kinh Xuân Thu và Hiếu Kinh thành tựu, Người hướng về ngôi Bắc Khuyết để quì lạy tỏ bày ý nghĩa thành tâm của mình. Trời liền mưa liên tiếp ba ngày hiện hóa thành một vòng cung rực rỡ từ Trời cao sa xuống 3 màu Vàng, Xanh, Ðỏ viết thành chữ "Xuất Sách Cổ Tự " .

                        Chú niệm 5 :
" Chí như ý từ, tường ư ngao trụ " .

                        Thánh ca :
" Chí lành hiệp với ý lành ,
Cự Ngao chở nổi núi non đức dày " .

        Dẫn giải : Ðạo uyên thâm, lời chánh ý, tâm nguyện điều lành, hiền nhân là cột trụ của đất núi Ngao trụ ở biển Bội Hải nhờ loài rùa học đạo uyên thâm mà chống đỡ được bền vững quanh năm .
        Chí lành làm việc vì lành thì dù núi Ngao trụ muốn trôi cũng không được, bởi đức công dày hóa băng sơn đóng chốt nêm trụ .

        Theo truyền sử viết: " Ở phía Ðông biển Bội hải có năm núi": Ðại Dư, Viên Kiều, Phượng Hổ, Dinh Châu và Bồng Lai .
        Năm hòn núi nầy là nơi các vị Thánh hiền thường trú ngụ, núi không chân thường trôi theo dòng nước ròng, các vì Tiên Thánh thấy thế tâu lên Ngọc Ðế và Người sai mười lăm con Cự Ngao (Rùa thần) đội năm hòn núi ấy để vững lại không cho trôi nữa và phân làm ba phiên, mỗi phiên sáu muôn năm đổi một lần " .

                        Chú niệm 6 :
" Khai nhơn tâm tất bổn ,
Ư đốc thân chi hiếu " .

                        Thánh ca :
" Trau tâm gốc cội con người ,
Hiếu thảo cha mẹ mới nên đạo người " .

        Dẫn giải : Mục đích Ðạo nho khai mở rộng tình người và coi việc giáo hóa nhơn tâm làm trọng, dạy con người biết hướng thượng, thờ cha kính mẹ lấy hiếu làm gốc, sống vì chân thật đối sử với nhau, muôn người đều hiếu thảo với cha mẹ và lấy mực thước đó làm trọn đạo người .

                        Chú niệm 7 :
" Thọ quốc mạch tất tiên ,
Ư trí chúa chi trung " .

                        Thánh ca :
" Ơn nhà nợ nước trước xong ,
Công ơn bảo hộ Vua lành Tôi ngay " .

        Dẫn giải : Người Nhơn đức tâm rất vững bền như mạch nước luôn chảy luân trong, không vì đem tài riêng lấp đức người hiền. Người trung vì mọi người mà hy sinh cho tất cả đồng sống đồng hưởng, dù cho muôn lần vào sanh ra tử không thối chí ngã lòng. Như các Ðấng đã từng dày công dạy bảo cho ta nẻo chánh đường ngay thì ta phải giữ trọn lành và không phụ lòng của các Ðấng .

        Làm thân con dân phải hướng niệm và phụng sự mạch sống quốc gia trên nhiều lãnh vực, được sinh ra và lớn lên trên mãnh đất do muôn họ và ông cha xây thành, công ơn ấy đời đời ta nhớ mãi, khi đất nước cần bảo vệ quốc mạch thì ta lấy thân để đền ơn không nên chối từ, nếu trên dưới thiên hạ đều lành đều trung thì xã tắc ắt thái bình .

                        Chú niệm 8 :
" Ứng mộng bảo sanh, Thùy từ mẫn khổ " .

                        Thánh ca :
" Ðiềm lành báo mộng lợi nhơn ,
Dù cho khổ cực nhưng mà chí cao " .

        Dẫn giải : Còn phận làm Vua thì phải có lòng đạo đức, nhân từ, bảo hộ, thương yêu dân và lo cho dân giàu nước mạnh .
        Vua Ðạo đức sản sinh tư tưởng nhân ái, hướng dẫn con dân thoát khỏi cảnh bần cùng nghèo khó, thường khi vào đêm khuya được báo mộng lành tìm kế sách điều hay và lẽ sống để phụng sự quốc dân. Nhân từ lòng thiện, thương người, hòa hợp lòng người, nhân từ ấy sẽ là nhân hòa mới đến địa lợi. Bảo hộ giữ gìn tổ quốc giống nòi, che chở lương dân, binh vực kẻ yếu và cô thế, tạo mọi sự sống công bình và thương yêu gần gũi vua dân .

         Sách chép rằng : " Vua Châu Võ Vương nhân từ đạo đức có tư tưởng bảo sanh dưỡng dục quốc dân, cho nên nhận được chiêm bao thấy ông Châu Công ứng mộng bảo làm lành. Vua Võ Vương không ban bố hiệu lịnh, chỉ âm thầm làm việc lành và Ðạo đức bảo hộ sanh linh hết khổ, lòng nhân từ vô tận của Võ Vương được lưu truyền đời đời " .

                        Chú niệm 9 :
" Ðại nhơn, Ðại hiếu, Ðại Thánh, Ðại từ " .

                        Thi ca :
"Nhơn, hiếu rộng tâm lành sáng chói."

        Dẫn giải : Ðại nhơn ơn lớn lòng rộng mênh mông phụng sự muôn loài như một. Người đôn hậu Ðại hiếu với đấng sinh thành và yêu thương đại chúng, sử thế muôn loài vạn vật có trước có sau đều như một. Ðại thánh đức lớn trí tuệ Bát Nhã thông suốt thấy rộng hơn muôn loài. Ðại Từ bi hỉ xả giải thoát đồng sinh, Ðại bác ái tha nhân cộng hưởng công bình và bao dung rộng lớn phụng sự muôn loài thắng khổ, bởi Ðức Khổng Tử là gương của lòng Trời soi sáng cho muôn loài tín ngưỡng .

                        Chú niệm 10 :
" Thần văn, Thánh võ, Hiếu đức trung nhơn " .

                        Thánh ca :
" Văn có Thần gốc Hiếu, Nghĩa, Nhơn ,
Võ nơi thông rõ Âm Dương .
Hiếu cha thảo mẹ đứng đầu Ðạo nho ,
Ðức ấy thiệt tâm làm âm chất .
Ðạo thờ vua một mực thẳng ngay ,
Chữ nhơn gồm bộc Ðạo nho " .

        Dẫn giải : Tư tưởng của Ðức Khổng Tử đã thành văn pháp niệm linh diệu không sai như chiêu số Âm Dương của Ðấng Thánh võ tinh thông, dụng võ để xây cột Trời che chở nhân loại nhằm bền chí tu học hầu đạt Thánh nhân, Hiếu đức đôn hậu của Ðấng hóa thành diệu phép Nhân, Nghĩa, Lễ, Tín là những phép khiêm cung kính trọng nhứt của Ðạo Nho .

        Ðêm 15 tháng 03 năm Ðinh Hợi [ 1947 ] Ðức Ngự Mã Thiên Quân [ Bát Phật ] hiện thân Ðức Hộ Pháp Phạm Công Tắc truyền dạy về phép hiếu, nghĩa, nhơn rằng :
        " Nhơn nghĩa là gì ?, Người có nhơn thì không oán, nghĩa thì không bạc. Công chánh là gì ?, có công thì không phụ, có chánh thì không tà, không chối cái điều chơn thật được, còn có Từ Bi thì có khoan hồng dung thứ có bác ái mới có thế bảo thủ và thân mến toàn thiện hạ, nếu chiếu theo Chơn Truyền của Ðức Chí Tôn khuyên bảo chúng ta thế nào, thì chúng ta phải tuân theo thế ấy, chúng ta phải khoan hồng, tha thứ, biết yêu ái, phải có công bình, chánh lý, chúng ta giữ được cả chơn truyền ấy thì không ghét ai oán ai. Trái lại Ðại Từ Phụ buộc chúng ta phải thương yêu kẻ nghịch, kẻ thù của chúng ta nữa " .

                        Chú niệm 11 :
" Vương Tân sách phụ ,
Nho Tông khai hóa " .

                        Thánh ca :
" Ngôi vua không nước dạy rành nhơn luân ,
Dựng Nho giáo khai minh bổn thiện " .

        Dẫn giải : Ðức Khổng Thánh đi chu du các nước đều nghinh tiếp Ngài, mới gọi là vì Vương Tân (khách của Vua), bởi Ngài hay giúp vua làm điều nhơn đạo, đàm luận chính giáo. Quốc gia nào phải Ðạo Ngài viếng thăm còn chẳng phải Ðạo Ngài lui gót, đến và đi thong thả nên người đời gọi Ngài là Vương Tân, Ngài mở mang giáo hóa nhơn sanh và đắc thành Giáo chủ Ðạo nho .

                        Chú niệm 12 :
                " Văn Tuyên Tư Lộc ,
                  Hoằng nhơn Ðế quân ".

                        Thánh ca :
"Tố Vương rày tặng Văn Tuyên ,
Ðế Quân đức cả sáng rày thinh thinh " .

        Dẫn giải : Sau khi Ðấng qui Thiên, Ðức Thượng Ðế triệu hồi linh hồn Ðấng về Bạch Ngọc Cung sắc phong Thiên chức " Văn Truyên Tư Lộc " bởi công nghiệp phước lộc của Ðấng tại thế gian rộng lớn mới xứng đáng phẩm tước ấy. Phẩm tước của Ðấng đứng vào bậc cõi Trời là Ðế Quân, hiệu Hoằng Nhơn lòng thương mênh mông .

        Kinh Vương Tôn ghi rắng : " Vua Văn Tuyên lấy việc thi cử và khoa mục để tuyển nhân đức, mở rộng tánh chất thiệt ngay làm nền tảng cho chánh Ðạo, muôn dân trong suốt và hiền đức, chân lý của Ðấng đạt đến mục đích tế độ rộng bao la ".

                        Chú niệm 13 :
" Trừng chơn chánh quang ,
Bửu Quang từ tế Thiên Tôn " .

                        Thánh ca :
" Thiên Tôn chấp chưởng cầm quyền Ðạo nho " .

        Dẫn giải: Trí tuệ trong sáng, chơn thật, ngay thẳng, thương yêu, làm lành mới có "Trường Chơn Chánh Quang ", bởi Ðấng dày công tu luyện mới được thành tựu thuần chơn vô ngã .
         " Bửu Quang Tư Tế Thiên Tôn " Ðấng của mầu nhiệm, ánh sáng quang minh, Ðức Khổng Tử truyền giáo cho quần linh, phép quí trọng Vũ trụ vì Ðấng là Thiên Tôn cao cả trên Bạch Ngọc Kinh .

        - 3 lạy. Mỗi lạy 3 gật X 3 lạy = 9 gật, mỗi lạy niệm : Nam mô Khổng Thánh Tiên Sư Hưng Nho Thạnh Thế Thiên Tôn .

LỄ DÂNG HOA
(Thài theo giọng Ðảo Ngũ Cung)

Từ Bi giá ngự rạng môn thiền ,
Ðệ Tử mừng nay hữu huệ duyên .
Năm sắc hoa tươi xin kỉnh lễ ,
Cúi mong Thượng Ðế rưới ân Thiên .

       Niệm : Nam mô Cao Ðài Tiên Ông Ðại Bồ Tất Ma Ha Tát .

            Ðức Bảo Văn Pháp Quân:
            " - Một lạy 4 gật và niệm : Nam mô Cao Ðài Tiên Ông Ðại Bồ Tác Ma Ha Tát."

        Thời Tý đêm 01 tháng 12 năm Ðinh Hợi (1947) Ðức Ngự Mã Thiên Quân ( Ðức Hộ Pháp Phạm Công Tắc ) truyền dạy dâng hiến Tinh Thể rằng :     
            " - Khi dâng lễ Tam Bửu. Hễ đưa Bông lên là dâng cái thể hình của chúng ta, tức là tượng hình xác thịt của chúng ta đó, ta cuối đầu cầu nguyện Chí Tôn:
         " - Con xin dâng mảnh hình hài của con cho Chí Tôn dùng phương nào thì dùng ".

        Dẫn giải :
        Ðức Thượng Ðế và quý Ðấng Thiêng Liêng xuống phàm trần hào quang sáng rực rỡ tại Ðền Thánh và Thánh Thất, Ðệ tử mừng vui gặp hội cứu rỗi và hạnh hưởng ân đức nầy, nay Ðệ tử kỉnh lễ thành tâm dâng năm sắc hoa tinh khiết, xin Ðức Thượng Ðế ban ân đức, rưới chan khắp mọi nơi cho muôn sanh đồng hưởng

        Hành lễ dâng Hoa biểu hiện lòng thành của thể xác nầy nay đã kết tụ Tinh khiết con dâng lên Ðại Từ Phụ cùng hòa vào Vũ trụ và vạn vật muôn loài .
         Ngoài ra trong Thần học Ðạo Cao Ðài còn có bộ ngũ Thể Pháp được phân chia như sau :
       - Ngũ sắc : Ðen, Trắng, Xanh, Vàng, Ðỏ .
       - Ngũ hành : Kim, Mọc, Thủy, Hỏa, Thổ .
       - Ngũ Phương : Bắc, Trung, Nam, Ðông, Tây .
       - Ngũ khí: Dương, Vũ, Thủy, Hỏa, Phong .

LỄ DÂNG RƯỢU

Thiên ân huệ chiếu giáng thiền minh ,
Thành kỉnh trường xuân chước tửu quỳnh .
Lạc hứng khấu cung giai miễn lễ ,
Thoát tai bá tánh ngưỡng ân sinh .
          Niệm : Nam mô Cao Ðài Tiên Ông Ðại Bồ Tát Ma Ha Tát .

            Ðức Bảo Văn Pháp Quân:
            " - Một lạy 4 gật và niệm : Nam mô Cao Ðài Tiên Ông Ðại Bồ Tát Ma Ha Tát ."

        Ðức Ngự Mã Thiên Quân truyền dạy dâng hiến Khí Não rằng :
        " - Khi dâng lễ Rượu cầu nguyện: " Con xin dâng cả trí đức tinh thần của con cho Chí Tôn dùng phương nào thì dùng " .

        Dẫn giải :
        Ðức Chí Tôn ban huệ đức minh triết cứu rỗi chiếu xuống Ðền Thánh và Thánh Thất, nhờ ân thiên nầy đệ tử xin dâng hiến lòng thành thần khí trí não chúc Ðức Chí Tôn miên trường, nay mừng khấn nguyện lời nầy xin Ðại Từ Phụ bao dung và tùy nghi sử dụng phương nào cũng đặng, cùng xá tội thiên hạ bá tánh ân hưởng nhân ái, háo sanh .

- Dâng Rượu biểu hiện chất (Khí ) về thời Tý và Ngọ. 12 giờ đêm và 12 giờ trưa  .

LỄ DÂNG TRÀ
Mai xuân nguyệt cúc vị trà hương ,
Kỉnh lễ thành tâm hiến bửu tương .
Ngưỡng vọng Từ Bi gia tế phước ,
Khai minh Ðại Ðạo hộ thanh bường .

         Niệm :  Nam mô Cao Ðài Tiên Ông Ðại Bồ Tát Ma Ha Tát .
          ( Ðức Bảo Văn Pháp Quân )

       (Một lạy 4 gật và niệm : Nam mô Cao Ðài Tiên Ông Ðại Bồ Tát Ma Ha Tát ) .
Home           1 ]  [ 2 ]  [ 3 ]  [ 4 ]  [ 5 ]  [   ]