Ý nghĩa về luân hồi của Đạo Cao Đài |
Ðiểm linh quang (hồn) thác sanh xuống cõi phàm, mục đích để học hỏi kinh nghiệm mà tấn hóa. Chuyển sanh xuống cõi sắc giới, tất phải mượn sắc thân mà hành động. Càng hành động, càng tạo nhơn. Tạo nhơn, linh hồn tái sanh phải trả quả, theo phép công bình Thiên đạo.
Từ xưa đến nay, dầu trình độ trí thức thấp hay cao,
nhơn loại phần nhiều đã tin có cơ báo ứng, tức là cơ nhơn quả.
Ðạo Phật dạy: "Cha
làm điều chẳng lành, con không chịu thế được, con làm điều chẳng lành, cha
không chịu thế được. Làm lành tự được phước, làm dữ tự mang họa" (Phụ
tác bất thiện, tử bất đại thọ, tử tác bất thiện, phụ bất đại thọ. Thiện tự
hoạch phước, ác tự thọ ương).
Ðạo Lão dạy Cảm Ứng có câu: "Ðiều lành, điều
dữ đều có trả, như bóng với hình" (Thiện ác chi báo, như ảnh tùy hình).
Ðạo Nho dạy: "Trồng
đậu được đậu, trồng dưa được dưa" (Chưởng đậu đắc đậu, chưởng qua đắc
qua).
Lại có câu: "Ðiều lành dữ cuối cùng đều có trả, khác nhau chỉ đến chóng hay chầy
thôi" (Thiện ác đáo đầu chung hữu báo, chỉ tranh lai tảo dữ lai trì).
Chúa Giêsu dạy: "Ai
sử dụng đao kiếm sẽ chết về đao kiếm" (Qui manie l'épée périra par
l'épée).
Tục ngữ Pháp có câu: "Ai gieo
gió thì gặt bão" (Qui sème le vent, récolte la tempête).
Tục ngữ Việt Nam có câu: "Ðời xưa quả báo thì chầy, đời nay quả báo một giây nhãn tiền".
* * *
Những câu trên đây đều biểu lộ rõ rệt cái quan niệm Nhơn quả vậy.
Ðấng Tạo Hóa chí công, không vì thương mà thưởng,
cũng không gì ghét mà phạt. Ngài chỉ lập ra Luật nhơn quả, cũng gọi là Luật báo
ứng, là cái qui tắc định rằng hễ nguyên nhơn như thế nào, thì kết quả như thế
ấy.
Ta thử nhìn vào một tấm gương, mặt ta sạch (Nhơn),
gương rọi ra sạch (Quả), trái lại, mặt ta dơ, gương rọi ra dơ.
Và ta thử ném vào vách tường một quả banh cao su,
ném nhẹ (Nhơn), tức banh dội lại nhẹ (Quả), trái lại, ném mạnh thì banh dội
mạnh, Nhơn quả đại khái là thế.
Vậy, ai tạo nhơn lành (duyên lành), sẽ hưởng quả
lành (nghiệp lành). Ai tạo nhơn dữ, tất rước quả dữ, chẳng sai.
Cái quả hay nghiệp vốn là kết quả cái nhơn hay
duyên của chúng ta tạo ra trong kiếp trước hoặc kiếp nầy. Rồi cái quả ấy lại
làm nhơn cho cái quả khác sẽ báo ứng về sau. Nhơn và Quả cứ tiếp tục tương ứng
như vậy mãi như bóng tùy hình mà buộc trói con người trong vòng oan nghiệp, mới
có cuộc trả vay, vay trả của kiếp luân hồi.
Vậy muốn biết nhơn quả kiếp trước của ai, cứ xem
cái địa vị sang hèn của người ấy ở kiếp đương sanh. Muốn biết nhơn quả đời sau
của họ thế nào, cứ xem tâm tánh và hành động của họ ở ngay kiếp nầy vậy.
* * *
Nhơn quả hay nghiệp báo vốn có hai thứ: Biệt nghiệp
(Karma individuel) và Cộng nghiệp (Karma collectif).
1 /. Biệt nghiệp là quả báo riêng từng người, ai tạo nhơn là nấy thọ quả.
Biệt nghiệp lại ứng quả có hai cách: Ðịnh nghiệp và Bất định nghiệp.
a) Ðịnh nghiệp là quả báo định trước. Nhơn hồn nào
tấn hóa khá rồi, khi được hoàn tỉnh sau cái trạng thái hỗn độn gây ra trong lúc
thoát xác phàm, lần hồi thấy rõ tội lỗi đã làm (*1) rồi biết ăn năn đau khổ, tự
quyết khi chuyển kiếp sẽ trả quả bằng cách nào, trong lúc nào, hoặc trong một
thời gian nào nhứt định. Nhơn hồn được tự do lựa chỗ thác sanh. Nếu phải chuyển
kiếp để thọ khổ mà đền tội trước, nhơn hồn thường lựa gia đình nào bần hàn hoặc
hung độc mà đầu thai cốt để có dịp cho mình trả quả.
b) Bất định nghiệp là quả báo không nhứt định
trước. Những nhơn hồn thấp thỏi, hôn mê ám muội đã tạo ác duyên mà không tỉnh
ngộ, cho nên quả ứng lúc nào hay lúc nấy, không biết tự mình quyết định.
2 /. Cộng nghiệp là quả báo chung cho nhiều người phải chịu. Như nhiều kẻ
đồng phạm một ác nhân, khi đền tội, phải chịu chung một ác quả.
Cũng có nhiều kẻ, tuy tạo nhơn khác nhau, song tội
đồng nhứt thể, đến khi trả quả vẫn chung chịu với nhau một lượt.
Lại có khi một người làm ác mà nhiều người chung
hưởng lợi, tất cũng phải thọ quả đồng thể.
Tất cả nạn nhơn một tai họa lớn như động đất, bão
lụt, chìm tàu, hỏa hoạn, dịch khí, chiến tranh,v.v… đều là những kẻ chịu một
quả báo chung vì họ đã đồng tạo một ác nhơn.
Mặc dầu xa lạ nhau, mặc dầu kẻ Nam người Bắc, Thiên
cơ xui khiến thế nào cho họ hiệp nhau một chỗ đặng đền tội chung một lượt.
(*1) Ở cõi phàm, con người hành động thế nào, sự
hành động ấy dầu hiền hay dữ, dầu thấp hèn hay cao thượng, cái ấn tượng của nó
in gắn vào tinh chất (matière astrale) của cõi Thần (Plan astral). Ðến khi hồn
lên cõi Thần, cái ấn tượng ấy hiện ra có thứ lớp rõ ràng, hồn người trông thấy
chẳng khác nào mục kích một phim chớp bóng. Nhà Phật gọi là "Nghiệt cảnh đài" (psyché
astrale).
Thời
gian báo ứng
Phàm bất câu một nguyên nhơn nào cũng có cái tánh
cách đem lại kết quả cấp kỳ. Nhưng lại thường có một nguyên nhơn khác xen vào
phản ứng (Cause contradictoire), khiến cho cái kết quả ấy phải hoãn lại một
thời gian.
Tỉ như chúng ta để ngón tay vào lửa (nguyên nhơn),
chúng ta bị phổng liền (kết quả cấp kỳ). Nhưng nếu chúng ta dè dặt, bao ngón
tay bằng một chất thuốc gì có công hiệu che chở, ngón tay ắt không bị phổng
liền. Lửa cần phải đốt hết chất ấy rồi mới bắt qua ngón tay.
Lớp thuốc ấy là nguyên nhơn phản ứng.
Lại ở các nước miền ôn đới như Việt Nam chẳng hạn,
phàm giống lúa hễ gieo xuống là nứt mộng lên mau. Nhưng ở các xứ lạnh, lúa lại
chậm lên là tại tuyết giá cản ngăn. Tuyết giá vốn là nguyên nhơn phản ứng đó
vậy.
Một đứa bé chơi nghịch bị cha nó bắt nằm xuống phạt
răn. Trong lúc người cha đưa roi lên sắp đánh, lại có một người khách đến thăm.
Ông cha phải buông roi hoãn sự răn trừng để tiếp khách. Sự khách đến thăm ấy
cũng là nguyên nhơn phản ứng.
Cũng vì "Luật
phản ứng" mà cái quả của một thiện nhơn hay một ác nhơn có khi không
báo ứng ngay trong kiếp tạo nhơn. Nên chúng ta thấy nhiều kẻ bạo tàn ác đức mà
được giàu sang sung sướng nghinh ngang hống hách với đời. Ấy bởi họ đương hưởng
cái quả của thiện nhơn họ đã tạo ra trong kiếp trước. Nhưng một khi đã tận
hưởng quả lành thì ngay trong kiếp đương sanh hoặc trong kiếp tái sanh, họ sẽ
chịu khổ quả của cái ác nhơn mà họ đương tạo.
Chúng ta cũng thấy có người hiền lương đạo đức mà
lận đận lao đao, ấy là họ đương trả quả của cái ác nhơn họ đã tạo ra trong tiền
kiếp. Trả quả xong, họ sẽ được hưởng ngay trong kiếp nầy hay trong kiếp sau,
cái quả của thiện nhơn mà họ đương tạo.
Vậy, đối với thời gian, sự báo ứng có ba cách:
1 /. Báo ứng ngay trong kiếp tạo nhơn, gọi đương kiếp nhơn quả.
2 /. Báo ứng theo cái nhơn kiếp trước, gọi tiền kiếp nhơn quả.
3 /. Báo ứng ở kiếp sau do cái nhơn hiện tại, gọi
hậu kiếp nhơn quả.
Chuyện
Nhơn Quả
Kéo
cày trả nợ
Chuyện nầy trích ở "Chuyện cổ nước Nam". Dầu rằng, người ta có thể bảo chuyện cổ
là chuyện bịa đặt, nhưng thấy tác giả tin tưởng Luật Nhơn Quả và có dụng ý
khuyến thiện, chúng tôi mượn chép ra đây:
Xưa có một người tên Châu Văn Ðịch, làm ăn vất vả,
cửa nhà đói kém, nhưng tánh khí hiền lành, ăn ở thật thà có nhơn, có đức.
Trong hạt có một nhà giàu thường cho người ấy vay
nợ, năm nào cũng vậy, vay vay, trả trả đã nhiều.
Gặp năm mất mùa, người ấy không trả được nợ, mà ông
nhà giàu cũng không hỏi đến. Mấy năm sau, người ấy chết đi, nợ vẫn còn lại. Nên
lúc hấp hối còn trối với con rằng:
"Nợ
nần chưa trả cho ai,
Hồn
nầy thác xuống tuyền đài chưa yên".
Một đêm, ông nhà giàu kia nằm mơ, nghe có tiếng
người nói ở bên tai rằng:
"Tái
sinh chưa dứt hương thề,
Làm
thân trâu ngựa đền nghì trúc mai".
Sáng ra ông thấy con trâu đẻ ra được con nghé trên
lưng có hai chữ "Văn Ðịch".
Con nghé mỗi ngày một lớn, khôn ngoan dễ bảo, cày
bừa rất khỏe. Người biết chuyện, ai cũng bảo rằng:
"Người
ăn thì còn,
Con
ăn thì hết.
Ðã
đến lúc chết,
Hãy
còn nhớ ơn".
Cách ít năm, hai đứa con Văn Ðịch khôn lớn lên, làm
ăn nhờ Trời cũng khá. Một hôm đang cày ngoài đồng, nghe thấy ở thửa ruộng gần
đấy có người bảo con trâu rằng:
- Văn Ðịch! Văn Ðịch! Nhanh chơn, mau bước, kẻo đã
trưa rồi.
Hai đứa con nghe kêu tên cha, ngạc nhiên chạy sang
bên ruộng hỏi thì người kia nói rằng:
- Con trâu nầy từ lúc sanh ra, trên lưng có hai chữ
"Văn Ðịch", mà có gọi đúng
tên nó như thế, thì nó mới chịu làm.
Lúc về hai đứa con vội vàng sang nhà ông nhà giàu
hỏi chuyện tỏ ý muốn mua con trâu, thì ông ấy bảo rằng:
- Trước tên "Châu
Văn Ðịch" có vay nợ ta, không trả được ta cũng không đòi? Có lẽ gì
vậy, mà phải hóa kiếp làm con trâu nầy trả nghĩa cho ta. Ðã mấy năm nay nó làm
ăn chịu khó, trong nhà ta đây cũng được thạnh vượng. Nó trả như thế, ta cho
cũng là đủ rồi. Vậy hai người có phải là con, muốn mua chuộc về thì ta để lại
cho. Ta lại trả cả văn khế cũ đem về mà hóa kiếp cho yên hồn cha.
Khi hai đứa con chuộc được con trâu về, vừa đem tờ
văn khế ra đốt, thì nó lăn ra chết. Thế là nó đã trả sạch được nợ kiếp trước
rồi.
Thấy chuyện nầy, người ta mới đặt câu "Kéo cày trả nợ" thành câu tục
ngữ.
Tiền
kiếp Nhơn quả
Chuyện nầy trích ở quyển sách "Vấn đề con người và số phận" của
Léon Denis, trang 289 "Le problème
de l'être et de la destinée".
Năm 1862, ông hoàng Galitzin cùng với Hầu tước B…
và Bá Tước R… đi nghỉ hè tại bờ suối nóng ở thành Hambourg. Một buổi chiều, ăn
uống xong, có hơi trễ, ba người cùng đi dạo trong vườn một hí viện. Bỗng ba
người bắt gặp một mụ bần hàn ngủ trên một chiếc "băng". Ba người liền đánh thức mụ và sau khi hỏi thăm tình
cảnh cơ hàn lại dẫn mụ về khách sạn cho ăn uống no nê. Nguyên ông hoàng
Galitzin vốn là một nhà biết thuật "thâu
thần" nên nảy ra ý định thôi miên mụ ấy. Lạ một điều là bình thường mụ
ấy chỉ bập bẹ một thứ thổ ngữ nước Ðức, thế mà lúc ngủ mê trong giấc thôi miên
mụ lại nói tiếng Pháp đúng đắn và rành rẽ. Mụ bảo kiếp trước vào thế kỷ 18, mụ
là một thiếu nữ giàu sang ở một biệt thự tại xứ Bretagne. Vì tư tình với kẻ
khác, mụ nhẫn tâm xô chồng từ một tảng đá xuống biển chết tươi. Cho nên kiếp
nầy mụ phải chịu bần cùng khốn khổ để đền tội kiếp trước. Mụ còn cho biết rành
mạch nơi đã xãy ra án mạng ấy.
Về sau, ông hoàng Galitzin cùng Hầu tước B… dò theo
lời mụ chỉ, đến xứ Bretagne tìm được nơi ấy, rồi hai người chia ra hai ngả để
điều tra riêng nhau cho chắc ý. Lúc đầu hỏi không ai biết, sau gặp nhiều ông
lão hỏi thăm thì mấy ông ấy bảo rằng có nghe cha mẹ thuật lại chuyện một thiếu
nữ kiều diễm và giàu sang ở một biệt thự nọ, vì ngoại tình, đành nhẫn tâm xô
chồng xuống biển. Thế là lời mụ kia thú tội trong giấc ngủ thôi miên đã được
xác nhận.
Khi ông hoàng về ngang qua Hambourg, ông ghé hỏi
thăm viên cảnh sát trưởng nơi đây về lai lịch của mụ ấy, thì được biết mụ chỉ
biết bập bẹ được ba tiếng Ðức và sống bằng nghề đưa rước quân nhơn.
* * *
Chuyện Nhơn quả dưới đây viết theo tài liệu rút
trong bản phúc trình của Hội Khảo Cứu Thần Linh Học thành Huesce, nước Tây Ban
Nha (Espagne) mà tờ Tạp chí Khoa học và Luân lý Thần Linh Học năm 1912 có đăng
tải (Revue scientifique et morale du spiritisme).
Từ năm 1881 tới năm 1884, người ta vẫn thấy đi lang
thang trên đường thành Huesca một người điên tên Suciac. Chàng ăn vận một cách
hì hợm, cứ nói lầm thầm một mình, ai hỏi điều chi cũng chẳng trả lời. Về sau,
vì thấy hắn trở nên nguy hiểm, người ta buộc phải xem chừng từng hành động của
hắn.
Cũng tại thành nầy có một Hội Khảo Cứu Thần Linh
Học (Groupe d'Etudes spirites) của một nhóm người học thức trung bình, mà Hội
Trưởng là ông Domingo Montréal và đồng tử là Sanchez Antonio. Ðồng tử nầy vốn
không biết chữ, nhưng lại có cái đặc biệt là "chấp bút" viết ra không hề chấm câu, nhưng cũng có khi
viết được nhiều bài dài thậm thượt và đúng theo văn phạm.
Khi Suciac chết, hồn anh giáng bút do Antonio viết
ra cho biết kiếp trước anh là vị lãnh chúa (Seigneur) thành Sangarren, vì gây
nhiều tội lỗi nên chuyển sanh phải thọ khổ mà trả quả. Suciac còn quả quyết
rằng nếu muốn tin chắc nên quan sát những tài liệu trong văn khố còn giữ tại
đền đài của anh ta ở trong kiếp trước tại Sangarren.
Nghe vậy nhóm người trong Hội Khảo Cứu Thần Linh
Học gồm có quí ông Domingo Montréal, Severo Lain, và Marvallo Bakkestar đích
thân đến cái đền cổ ấy để quan sát nhưng người nơi đó bảo rằng đền ấy không
chứa một dấu vết gì về văn khố cả.
Mấy ông ấy thất vọng trở về bảo Antonio chấp bút
hỏi lại thì hồn anh Suciac về cho biết những tài liệu ấy giấu kín bên cạnh lò
lửa trong nhà bếp.
Ðoàn quan sát bèn đến Sangarren một lần nữa và được
người ta cho phép dò xét trong nhà bếp, thì lạ làm sao, họ tìm được một mớ tài
liệu viết trên da mỏng và giấu trong một chỗ kín vách tường.
Những tài liệu ấy được đem về thành Huesca, nhờ
giáo sư Oscariz dịch ra tiếng Tây Ban Nha thì đúng theo lời của hồn anh Suciac
đã cho biết.
Trả
nợ tín thí
Ðức Ca-na-đề-bà (Kanadeva) Tổ sư thứ 15 của Phật
giáo bên Ấn Ðộ, có lần sang truyền đạo tại nước Tila. Thuở ấy, vườn ông trưởng
giả Phạm Ma Tín Ðức có một cây đại thọ sanh ra một thứ nấm rất thơm, thường bữa
ông cùng con thứ hai là La Hầu La Ða nhổ nấm ấy ăn rất ngon, mà hễ nhổ sớm mai
thì chiều thấy nấm khác mọc ra.
Tổ sư vốn biết rõ nguyên nhơn việc ấy, nên đến
viếng trưởng giả và giải cho ông ấy biết việc lạ ấy vốn như vầy:
"Nguyên
trong một tiền kiếp, ông và con ông thành tâm cúng dường cho một thầy tì khưu.
Nhưng thầy ấy đạo hạnh chưa hoàn toàn, quanh năm suốt tháng cứ ngửa tay thọ
lãnh của hai người mà ăn tiêu, nhưng chẳng lập được một đạo nghiệp nào đáng kể.
Cho nên kiếp nầy tỳ khưu ấy phải đọa sanh làm nấm đặng trả món nợ tín thí ở
kiếp trước đó vậy".
Nghe thuật rõ có báo ứng, ông trưởng giả liền thưa:
- Bạch Tôn sư, tôi vô phước không sớm được gặp
Ngài, nay tôi đã già nua, sức yếu tiếc không thể theo hầu hạ Ngài, nay tôi tình
nguyện cho con tôi đây là La Hầu La Ða theo thọ giáo, xin Ngài từ bi thâu nạp.
Tổ sư vui vẻ đáp:
- Kiếp trước con ông đã có duyên lành được Ðức Như
Lai Thế Tôn thọ ký, sau nầy sẽ là một vị Giáo chủ trong Phật đạo. Vậy, sự hội
ngộ hôm nay không phải ngẫu nhiên, mà là do duyên từ trước vậy.
(Viết theo tài liệu rút trong "Sự tích 33 vị Tổ sư " của Phật giáo).
Ðức
Cưu-ma-la-đa giảng cơ báo ứng
Chuyện nầy viết theo tài liệu rút trong "Sự tích 33 vị Tổ sư" do Phật
học Tạp chí "Từ bi âm" xuất
bản.
Ðức Cưu-ma-la-đa (Kumarata) là Tổ sư thứ 19 của Ðạo
Phật bên Ấn Ðộ. Sau khi đắc đạo, Ngài sang thuyết pháp bên miền Trung Ấn Ðộ.
Thuở ấy có đại sĩ Xá-dạ-đa hỏi Ngài:
- Bạch Ngài, song thân tôi vốn hiền lương, rất tin
sùng Phật giáo, song thường bị đau ốm và bất câu làm việc gì cũng thất bại; còn
người bên cạnh, chuyên nghề hàng thịt sát hại chẳng biết bao sanh mạng. Ấy vậy
mà hắn vẫn khỏe mạnh và làm ăn ngày thêm phát đạt. Thật tôi không rõ thế nào là
cơ báo ứng, cúi xin Ngài từ bi chỉ giáo.
Tổ sư giảng giải:
- Cơ báo ứng vốn có ba thời kỳ, không nên lấy lẽ
thạnh suy, bĩ thới hiện tại mà đoán được căn phần hiện tại. Phải biết cái lý
nhơn quả không bao giờ sai chạy. Nhơn với quả cũng như bóng với hình, hình
thẳng tức bóng ngay, hình chinh tức bóng lịch. Người đời không rõ cái lý ấy mới
dám ngờ vực khi thấy bực hiền lương mà hoạn nạn, kẻ bạo tàn lại được vinh
quang, chớ họ biết đâu rằng sở dĩ kẻ tích ác mà đặng giàu sang là nhờ hưởng cái
duyên kiếp trước, cũng như kẻ hiền từ mà chịu nghèo khổ là tại cái oan nghiệt
tự mình đã tạo ra kiếp xưa, nên kiếp nầy phải trả. Ðến như cái nhơn hiện tại là
mầm móng cái quả tương lai đó vậy.
Ðành rằng có ba nghiệp, nhưng mỗi nghiệp cũng do
vọng mà sanh, vọng hoặc lại do thức tình mà dấy, thức tình sở dĩ có vì tánh bất
giác, mà tánh bất giác lại ở nơi tâm. Nhưng bổn thể của tâm vốn là thanh tịnh,
không sanh, không diệt, không tạo tác mà cũng không báo ứng. Con người thấu
được chỗ diệu lý ấy, thì đối với họ, tất cả những pháp hữu vi và vô vi đều là
mộng ảnh, không cần phải quan tâm đến.
Người như vậy tức đồng bực với Phật đó.
IV .
Làm phước gặp phước
Thuở xưa có hai vợ chồng Kế-la-di, tuy nghèo nhưng
mà biết an thân thủ phận, vui sống cuộc đời thanh bạch, tâm tánh từ hòa và hay
nhịn nhục. Một hôm, vợ chồng thức dậy sớm, chia nhau một người một ngả đi làm
mướn kiếm tiền đặng độ nhựt.
Dọc đường, Kế-la-di gặp nhiều ông trưởng giả ăn mặc
chỉnh tề hội nhau trong một ngôi chùa để tổ chức một cuộc bố thí. Thấy vậy,
chàng thầm trách mình nghèo khổ chẳng có phương tiện bố thí như người ta, nên
lòng càng buồn bực.
Tối lại, chàng về nhà không ngủ được, cứ nằm lăn
qua trở lại thở dài. Chàng thầm nghĩ vì kiếp trước không làm điều thiện, nên
kiếp nầy phải chịu bần cùng khổ sở, còn mấy ông trưởng giả kiếp trước có tu
nhơn tích đức, nên kiếp nầy được giàu có hơn người. Chàng lại nghĩ nếu kiếp nầy
không sớm lo lập âm đức, kiếp sau ắt còn khổ sở hơn nữa.
Người vợ thấy chàng buồn bực liền hỏi duyên do, thì
chàng đáp:
- Nầy hiền thê! Anh sở dĩ ưu phiền là vì kiếp trước
không vun cội phước nên ngày nay phải chịu cực khổ cơ hàn, muốn làm âm chất
ngặt nỗi không tiền.
- Anh chẳng nên buồn bực, mà than dài thở vắn cũng
chẳng ích chi. Tốt hơn là đem bán em cho nhà giàu lấy tiền bố thí có phải ích
lợi xác thực hơn không?
Kế-la-di nghe vợ nói hết sức thương tình, rồi đáp:
- Chúng ta vốn cùng chung một số phận, cùng chia
nồng sớt lạnh, lẽ nào anh làm được điều vô nhơn đạo ấy?
- Thôi thì chúng ta đồng bán thân lấy tiền làm công
đức, anh nghĩ sao?
Kế-la-di vui chịu, rồi sáng ra cùng nhau đến nhà
một ông phú hộ và thưa:
- Thưa ông, vợ chồng chúng tôi đến xin ông cho
chúng tôi bán thân lấy ít đồng vàng đem về cúng Phật và làm phước.
Ông phú hộ ngạc nhiên hỏi:
- Hai vợ chồng muốn bao nhiêu?
- Thưa, lối 10 đồng vàng thôi.
- Thôi, ta cho hai ngươi mượn 10 đồng vàng, với
điều kiện là trong bảy ngày phải lo huờn lại. Nếu quá kỳ hạn mà không trả,
chừng đó hai người phải ở làm công cho ta mà trừ nợ.
Hai vợ chồng mừng rỡ, liền làm giấy nợ rồi lãnh
tiền đi đến một ngôi chùa ra mắt chủ tăng, xin nạp 10 đồng vàng, nhờ chủ tăng
qua ngày thứ 6 làm chạy bố thí giùm, rồi ngày thứ 7 sẽ huờn kinh cúng ngọ.
Chủ tăng vui lòng chấp thuận, lúc ấy hai vợ chồng ở
tại chùa, vợ lo giã gạo xây bột, chồng bửa củi, gánh nước, bao hàm tất cả công
việc cực nhọc về việc làm chay.
Lúc ấy lại có một vị quốc vương đến chùa cậy chủ
tăng lập đàn cầu siêu cho tiên vong và bố thí kẻ nghèo, nhưng trớ trêu làm sao,
quốc vương cũng định ngày cầu siêu cùng một lúc với vợ chồng Kế-la-di.
Chủ tăng liền tâu ông đã định lo bữa ấy làm chay
cho vợ chồng Kế-la-di rồi, xin nhà vua dời qua ngày khác.
Quốc vương bất bình và phán:
- Trẩm đây là bực quân vương, còn kẻ kia là hạng
thần dân, lẽ nào không nhường ngày ấy cho trẩm sao?
Nói đoạn, quốc vương sai người đến bảo La-di nhường
ngày ấy cho Ngài làm chay trước.
Vua sai người đi điều đình như vậy đến ba lần,
nhưng La-di vẫn khăng khăng không chịu nhường.
Quốc vương lấy làm lạ liền cho đòi La-di đến giáp
mặt hỏi nguyên do, thì chàng tâu rằng:
- Tâu Thánh thượng, kẻ mạt dân nầy chỉ được tự do
trong hai ngày ấy thôi, chớ qua ngày sau thân nầy phải làm nô lệ cho người
khác, không còn tự do cúng Phật trai Tăng được nữa. Vì lẽ ấy, mạt dân không thể
làm vừa lòng Thánh thượng.
Quốc vương gạn hỏi đuôi đầu, biết rõ ngọn ngành,
lấy làm khen ngợi La-di, nên vui lòng nhường cho vợ chồng khai pháp hội trước
mình. Ngài truyền lịnh xuất bạc vàng châu báu ban thưởng hai người, lại xuống
chiếu dạy quan địa phương cắt đất cho hai vợ chồng chung hưởng huê lợi suốt
đời.
Nhờ vậy, Kế-la-di có tiền đem trả ông phú hộ để
chuộc lại tự do.
(Tóm tắt theo tài liệu "Tục tạng kinh")
KẾT
LUẬN
"LUÂN
HỒI" là cơ mầu nhiệm cũng như "QUẢ
BÁO" là luật thưởng phạt công bình của Thiên Ðạo.
Là cơ mầu nhiệm, sự "Luân hồi" không thể đem phô diễn hằng ngày trước mắt
muôn người. Tuy nhiên, vì đức từ bi, nên thỉnh thoảng Tạo Hóa cũng hé màn bí
mật cho người đời chiêm nghiệm, cũng để nhắc chừng cho biết "Chết không phải là hết" và
linh hồn, điểm linh quang bất diệt ấy, phải trải qua muôn muôn ngàn ngàn kiếp
tái sanh đặng học hỏi, kinh nghiệm mà tấn hóa.
Những chuyện "Luân
hồi" và "Quả báo"
chúng tôi đã trình bày cũng đủ chứng minh điều ấy. Chúng tôi không bịa đặt, chỉ
ra công sưu tập tài liệu trích trong kinh điển và báo chí mà đăng ra, có xuất
xứ rõ ràng, có bằng chứng hiển nhiên.
Có "Luân
hồi" tức có tạo nhơn, tạo nhơn, linh hồn chuyển kìếp, phải trả quả là
lẽ đương nhiên. Không cần nói đến "Luật
thiêng liêng", ngay "Luật
đời" cũng không bao giờ để yên cho người tạo ác. Song "Luật đời" phạm nhơn còn
phương trốn, chí ư "Luật thiêng
liêng" thì một mảy không qua, dữ lành đều báo ứng. Trong mấy năm qua,
chúng ta đau lòng mục kích chẳng biết bao nhiêu tang tóc, bao nhiêu tàn phá,
giàu sang trở nên nghèo khổ, nghèo khổ hóa thành giàu sang, hầu hết những kẻ
lưu manh tàn ác phải đền tội bằng cách nầy hoặc cách khác. Rõ ràng là "Cơ báo ứng nhãn tiền" của công bình
Thiên Ðạo.
Họa phúc do con người tự tạo, bằng chứng rõ ràng, chúng ta có quyền lựa chọn giữa hai con đường SIÊU và ÐỌA.
Phải chăng Hội Long Hoa, tức Hội Ðại Ðồng Phán Ðoán (Grand Jugement
Général) đã bắt đầu khai diễn vào thời kỳ mạt pháp nầy, để rồi mở ra một Ngươn
mới, Ngươn Thánh Ðức, cho những tâm hồn trong sạch chung sống cảnh HÒA BÌNH và
HẠNH PHÚC của một đời mới?
HẾT
Home [ 1 ] [ 2 ] [ 3 ]