![]() |
Thuyết Luân Hồi qua các Tôn giáo và học thuyết cổ
kim
Từ cổ chí kim, từ Âu sang
Á, hầu hết các dân tộc, dưới hình thức nầy, hoặc hình thức khác, với một trình
độ trí thức thấp kém hay cao siêu, vốn có một tin tưởng tương tợ nhau về sự
linh hồn bất diệt. Sự tin tưởng ấy, lúc đầu còn mập mờ vì kém quan sát và thiếu
phương tiện khảo cứu, lần lần phải trải qua nhiều thế hệ, cái đức tín ấy mới
được minh xác. Cho đến ngày nay, linh hồn bất diệt được cho là một sự thật hiển
nhiên. Ngoại trừ phái duy vật,
hầu hết các dân tộc nhìn nhận rằng: "Chết
không phải là hết", như nhà Nho bảo: "Sanh ký tử qui" (sống gởi
thác về). Chết là xác thịt rã tan, nhưng con người vẫn còn một cái gì thiêng liêng và luôn luôn tồn tại, ta gọi linh hồn đó.
Ðể minh chứng điều nói
trên, chúng tôi xin mời quí vị cùng chúng tôi lược khảo các Tôn giáo và học
thuyết cổ kim về quan niệm luân hồi.
I . Ở nước Ấn Ðộ
Ấn Ðộ có thể nói là nước
phát triển trước nhất về trình độ tinh thần trí thức, là nơi sản xuất nhiều Tôn
giáo.
Ấn Ðộ Giáo (Hindouïsme) do
Bà La Môn Giáo (Brahmanisme) mà ra và được phổ biến ở Ấn Ðộ tân thời. Ấn Ðộ
Giáo có hai phái: một phái thiên về triết lý, lấy kinh Vedas và kinh Upanishad
làm căn bản cho giáo lý mình, một phái thì chuyên chú về lễ bái nhiều hơn. Phái
sau nầy, ngoài hai thứ kinh kể trên, còn dùng thêm nhiều thứ kinh khác, như
Pourânas viết bằng chữ Phạn và theo lối vận văn, trong đó có giảng giải về Càn
Khôn Võ Trụ, nguồn cội, tông tích các vị thần và các triều vua chúa. Phái nầy
chủ trương rằng tất cả thần linh đều do một Tôn thần độc nhất hóa thân ra và
chịu dưới quyền chi phối của ba Hiện thể (Trimourti) của Tôn thần ấy là: Thần
Sáng Tạo (Brahma), Thần Phá Hoại (Shiva) và Thần Bảo Tồn (Vishnou).
Trong kinh Pourânas có
kinh Bhagavad-gita, trong đó ghi chép những lời giải thích của Ðức Krishna đáp
lại những nghi vấn của môn đệ Ngài là vua Arjuna, cũng như Luận Ngữ của Ðạo Nho
vậy.
Dưới đây, xin dịch một đoạn
trong kinh ấy giải thích về linh hồn và kiếp luân hồi.
"Linh hồn vốn bất sanh bất tử, nó không phải sanh
ra lúc trước, nó không thể tái sanh, bất sanh bất diệt, vĩnh kiếp trường tồn và
vốn có sẵn từ xưa, nó chẳng hề tiêu diệt khi người ta tiêu diệt thể xác.
Vậy, có lẽ nào một người đã biết nó bất sanh, bất tử,
vĩnh kiếp trường tồn, lại giết hoặc mướn giết kẻ khác?
Linh hồn bỏ những xác thân hư hoại để nhập vào những
xác thân mới, cũng như người ta bỏ y phục hư rách để mặc vào những y phục mới
vậy.
Nầy Arjuna ta đã sanh ra nhiều lần, ngươi cũng thế. Ta
thì biết rõ tiền thân của ta duy ngươi chưa biết đó thôi."
Lời dạy trên đây, chúng tỏ
đạo lý Ấn Ðộ thời xưa nhìn nhận linh hồn bất diệt và sự tấn hóa của nó phải
trải qua nhiều kiếp chuyển sanh cho tới khi đắc đạo trở về nguyên bổn.
Lối 560 trước Tây lịch kỷ
nguyên, Thái Tử Sĩ-đạt-tha (Siddharta) giáng sanh, Ngài là con vua Tịnh Phạn
Ðầu-đà-na (Suddhodana), nước Ca-tì-la-vệ (Kapilavastu).
Nhân quả luân hồi: Kiếp trước mắc nợ người, kiếp này
làm cha mẹ để hoàn trả
Lớn lên, Thái Tử thấy
chúng sanh đau khổ, trong nước chia nhiều giai cấp, còn Ðạo Bà La Môn thì lần
lần sai biệt chơn truyền, không còn phù hợp với trình độ tinh thần và trí thức
của chúng sanh nên Ngài lìa bỏ giàu sang, quyết tu thành đạo mà giải thoát cho
nhơn loại.
Sau khi đắc đạo với danh
hiệu là Thích Ca Mâu Ni Phật, Ngài lập ra Phật Giáo, đánh đổ giai cấp và đề
xướng chủ nghĩa Từ Bi.
Ngài nhập Niết Bàn rồi thì
Phật Giáo chia làm hai tông: Bắc Tông hay Ðại Thừa (Mahayana) xu hướng về duy
tâm và được quảng đại quần chúng về theo. Nam Tông hay Tiểu Thừa (Ninayana) hơi
thiên về duy vật và lập thuyết theo khoa học và lý trí. Tông nầy lại được hàng
trí thức trong nước hoan nghinh.
Về sau, Phật Giáo Bắc Tông
truyền bá qua nước Trung Hoa, Nhật Bổn, Việt Nam cho đến ngày nay.
Ðức Thích Ca có dạy chư
môn đệ như vầy: "Bực chơn tu công
viên quả mãn, đều biết được kiếp trước của mình".
Ngài lại đơn cử một thí dụ
cho dễ hiểu:
Có một người kia bỏ làng
mình sang ở một làng khác, rồi lại đến ngụ một làng khác nữa. Khi trở về làng
cũ là chỗ chôn nhau cắt rún, người ấy nói: "Tôi đã di cư làng nầy đến làng
kia, ở đâu tôi cũng có cách ngồi đứng riêng: ngày nay tôi trở về cố
hương".
Theo thí dụ trên đây, Phật
ngụ ý bảo rằng bực chơn tu đắc đạo nhớ được những tiền kiếp của mình đã trải
qua cũng như kẻ phiêu lưu khi trở về làng cũ, còn nhớ rõ những nơi mà trước kia
mình đã cư ngụ.
Trong kinh Tục Tạng (quyển
Lục Ðộ Tạp Kinh) có nói rõ sự tích về tiền thân của Ðức Thích Ca lúc chưa thành
Phật. Khi hóa sanh làm con vật, khi làm người, mà kiếp nào Ngài cũng đem của
cải hoặc hy sinh cả tánh mạng bố thí cho các loài hữu hình.
Nhưng Ðạo Phật không gọi
điểm Linh quang là Hồn mà gọi là A-lại-da, người Tàu dịch là Trạng thức hay
Nghiệp thức. Theo nhà Phật, con người có Bát thức mà A-lại-da là thức thứ tám.
A-lại-da là cái tâm thức, vì lúc ban sơ không giữ được tự tánh, cứ tùy theo
duyên kiếp hàm tàng các hột giống tốt xấu, lành dữ, thanh trược, và chứa đủ các
món ác kiến, tà kiến, ngã chấp, pháp chấp, vì thế mà tạo nhơn thọ quả rồi phải
đọa luân hồi. Khi con người chết, A-lại-da thức đi đầu thai đem theo các hạt
giống ấy, tức là những dục vọng và những tư tưởng tốt hay xấu của kiếp trước,
gọi là Thức thần.
II . Ở nước Ai Cập
Nước Ai Cập ở vào miền
Ðông Bắc Phi Châu, có một nền văn minh rất cổ, mà Tôn giáo lại vô cùng bí mật.
Thử để chơn vào bãi sa mạc ấy, ta sẽ ngạc nhiên thấy nào là đền thờ, chùa miễu,
nào là đồng trụ, kim tự tháp có khắc cổ tự (hiéroglyphes) với con quái vật đầu
người mình sư tử (Sphinx) ngồi xổm lên như đang nghĩ ngợi điều gì. Thêm những
mồ mả đúc vào đá đưa những bực lỡ ra tận bờ sông êm đềm lặng lẽ. Ai Cập thật là
một pho sách quí mà các nhà khảo cổ dựa vào đó cố sức vén màn bí mật của nền
Tôn giáo tối cổ nước ấy.
Cổ Ai Cập tôn thờ một vị
Tố Linh Thần có ba thể phù hạp với khoa triết học của Ấn Ðộ: Hỏa Thần Osiris,
biểu hiệu Thái Dương, xem xét và bảo hộ linh hồn người chết, Nữ Thần Isis, biểu
hiệu Thái Âm, chưởng quản cơ mầu nhiệm tạo hóa, trên hai vị thần ấy là đứng
cường kiện, cao minh, tối linh, tối diệu, người Ai Cập không dám bàn luận đến
cũng không dám gọi danh là gì.
Dân cổ Ai Cập tin có linh
hồn bất diệt và sau khi thoát xác cần có nơi nương dựa. Vì tin tưởng thế, họ
bày ra phương pháp ướp xác chết (momie) và xây những kim tự tháp là nơi trú ngụ
của linh hồn các bực đế vương, vì họ tin rằng nhờ phép huyền bí, linh hồn người
chết sẽ sống lại một cuộc đời mới. (*1)
Theo lễ giáo Ai Cập, người
mới nhập môn cầu đạo, trước nhất phải học tự tri. Sau khi làm lễ nhập đạo, tân
Tín đồ được một Mục sư đứng giảng rằng:
"Hỡi người có linh hồn mờ tối! Người nên dự bị
lấy bó đuốc soi sáng lẽ huyền vi, thì trong đêm khuya tăm tối ở cõi trần gian,
người có thể tìm thấy cái Nhị xác thân sáng rỡ và cái Linh hồn thiêng liêng của
người được. Ta là kẻ thọ Thiên mạng đưa đường, chỉ nẻo cho người, còn chính
người là vị thần hộ mạng cho người đó, vì người nắm giữ các chìa khóa đời trước
và đời sau của người vậy".
Câu trên đây (đời trước và
đời sau của người) chứng tỏ Tôn giáo cổ Ai Cập tin có luân hồi chuyển kiếp.
(*1) Thông Thiên Học
(Théosophie) lại bảo rằng các Kim Tự Tháp đều do các vị Chơn Nhơn cất ra và
chia làm nhiều phòng điểm đạo và dạy đạo cho các đệ tử.
III . Ở nước Ba Tư
Ba Tư là một nước thuộc
Châu Á, một cổ quốc rất phồn thạnh.
Ba Tư Giáo (Mazdéïsme) do
Ðức Giáo Chủ Zoroastre lập thành, chủ trương hai vị Thần Thiện và Ác. Tôn giáo
nầy cho rằng sự cứu cánh của tất cả loài chúng sanh là sự cứu rỗi cuối cùng
(rédemption final), chúng sanh phải trải qua nhiều kiếp trả vay, nhơn hồn mới
được hưởng hạnh phúc cuối cùng.
Tôn giáo Ba Tư đánh đổ cái
quan niệm một cảnh địa ngục giam hãm linh hồn đời đời kiếp kiếp, trái hẳn đức
Từ bi của Tạo Hóa.
IV . Ở nước Hy Lạp
Hy Lạp là một nước thuộc
Nam bộ Âu Châu, khai hóa rất sớm, tất cả văn hóa Âu Châu gốc bởi đó mà ra.
Nhà hiền triết Pythagore,
vừa là một nhà chánh trị và tôn giáo cải cách, sau khi học đạo qua mấy nước Ai
Cập, Ba Tư, Ấn Ðộ, trở về Hy Lạp xướng lên thuyết Luân Hồi. Thuyết nầy gồm có
hai phần: phần tâm truyền riêng dành cho các cao đồ trí thức lãnh hội về khoa
huyền bí, phần công truyền để dạy hạng thường nhơn trí thức còn kém cỏi. Chính
phần công truyền nầy đẻ ra cái thuyết "Luân
hồi thối hóa".
Theo thuyết nầy, ông Timée
de Locres, một môn đồ của Ðức Giáo Chủ Pythagore bảo rằng: "Linh hồn kẻ hèn nhát chuyển kiếp làm đàn bà để chịu khinh bỉ nhục
nhã, linh hồn kẻ sát nhơn chuyển kiếp làm ác thú để đền tội, linh hồn kẻ tồi
bại vô liêm chuyển kiếp làm heo lợn, kẻ nhẹ dạ hay thay lòng đổi tánh chuyển
kiếp làm chim bay trên không khí, bọn lười biếng điên ruồng, ngu dốt chuyển
kiếp làm thủy tộc."
Ông Hérodote mà thời nhơn
suy tôn là "Ông cha của lịch
sử" (Le père de l'histoire) tin rằng những linh hồn trong sạch có thể
tấn hóa lên các vì tinh tú.
Thiên thu trong khoảnh khắc
Một cao đồ khác nữa của
Ðức Giáo Chủ Pythagore là nhà hiền triết Platon, nêu ra hai luận thuyết:
- Theo luận thuyết thứ
nhứt, ông bảo trên thế gian vì sự tử kế tiếp sự sanh, người ta có thể suy ngược
lại mà bảo rằng sự sanh cũng kế tiếp sự tử vậy. Lại không có cái gì từ chỗ
không mà sanh ra được, cho nên nếu những người chết rồi mà chẳng tái sanh, thì
tất cả vạn vật sẽ nối tiếp nhau đi vào chỗ chết mà tiêu diệt.
- Theo thuyết thứ hai, ông
căn cứ vào ký ức lực mà lập luận, ông cho rằng học hỏi tức là nhớ lại. Rồi ông
suy luận, nếu linh hồn chúng ta nhờ học hỏi mà nhớ đã có sống một lần nào rồi
trước khi nhập vào xác hiện tại, tại sao chúng ta chẳng tin rằng sau khi lìa bỏ
cái xác hiện tại, linh hồn chúng ta sẽ liên tục thác sanh nhiều kiếp khác nữa.
Ông Platon còn quả quyết
linh hồn nào đã tấn hóa đến chỗ toàn thiện, thì không còn chuyển kiếp nữa.
Nhưng trước khi lên tới bực cao siêu ấy, tất cả linh hồn sau khi thoát xác phải
xuống địa ngục hàng ngàn năm, đến lúc tái sanh (đi đầu thai) vì phải uống nước
sông Léthé nên quên cả tiền kiếp của mình.
Tân học phái Platon
Về sau các môn đồ ông
Platon dựa theo học thuyết của thầy mà lập ra một học phái mới, gọi là Tân học
phái Platon (Ecole néo Platonienne). Tông đồ học phái mới nầy, nhứt là ông
Plotin càng làm cho thuyết luân hồi được rõ rệt thêm lên. Nguyên ông có biên
tập 64 bộ sách, mỗi bộ gồm 9 quyển gọi Ennéades. Trong những kinh điển ấy, ông
thường lập đi lập lại cái thuyết luân hồi. Ông bảo đó là một tín điều đã được
công nhận từ đời thượng cổ và truyền bá khắp hoàn cầu, linh hồn nào phạm tội
phải chịu hình phạt nơi địa ngục, mãn hạn sẽ được chuyển sanh vào một xác mới
để chịu nhiều cuộc thử thách.
Trong quyển thứ chín của
bộ hai, ông bảo: "Thiên mạng của các
Ðấng Thần Linh qui định cho mỗi người trong chúng ta một kiếp số tương đối với
những hành vi của chúng ta trong mỗi kiếp trước."
Một môn đệ của ông Plotin
là Porphyre cũng bác thuyết "Luân
hồi thối hóa". Theo Porphyre, linh hồn con người dù có nhiều tội lỗi
đi nữa vẫn chuyển kiếp làm người thôi.
Tóm lại, theo chỗ tin
tưởng của các môn đồ ông Pythagore và Platon, thì không có hình phạt vĩnh viễn.
Tất cả linh hồn đều tấn hóa thêm lên và nhờ sự cố gắng của mình sẽ tiến lần đến
sự cứu chuộc cuối cùng.
V . Ở nước Ả Rập
Nước Ả Rập là một đại bán
đảo ở về miền Tây của Nam Á Ðông. Thành La Mecque Thánh địa của nước nầy, là
nơi giáo chủ Mahomet giáng sinh. Ngài phải mất 15 năm công phu suy gẫm để tìm
phương pháp cải cách tôn giáo và xã hội cho dân Á Rập. Nhơn đó Ngài lập ra Hồi
Giáo (Islamisme) năm 622 sau Tây lịch kỷ nguyên. Lúc sơ khai, Hồi Giáo được
nhiều người hoan nghinh nhập môn cầu đạo, mà cũng bị lắm kẻ đứng lên kích bác
và đánh đổ kịch liệt. Sau khi Ðức Mahomet qui vị, các môn đồ tiếp tục truyền bá
mối Ðạo và được thạnh hành nhứt ở Trung Á, Tây Á, Bắc Phi, Thổ Nhỉ Kỳ và miền
Tây Bắc Trung Hoa.
Giáo lý của Hồi Giáo được
giảng trong Thánh kinh Coran gồm có 114 chương bằng chữ Á Rập. Hồi Giáo tin có
số mạng, tiền định (prédestination) cho nên nếu một tai nạn nào xảy đến cho
người Á Rập, họ tự nhủ: "Việc nầy đã
tiền định rồi".
Thuyết Luân Hồi được chỉ
rõ trong Thánh kinh Coran, chương XXX:
"Ðức Thượng Ðế hóa sanh vạn vật cho luân hồi
chuyển kiếp nhiều lần tới khi chúng trở về với Ngài".
XI . Ở
xứ Judée
Do Thái Giáo (Judaisme),
tôn giáo của người Do Thái (Juifs), là nguồn gốc của Cơ Ðốc Giáo (Christianisme).
Thánh Kinh (Bible) vốn có hai phần: phần thứ nhứt nói về Ðạo Do Thái, gọi Sấm
truyền cũ hay Cựu ước (Ancientestament), phần thứ nhì nói về Ðạo Cơ Ðốc gọi Sấm
truyền mới hay Tân ước (Nouveau Testament).
Dân Do Thái cho rằng cả
thế gian đều tin có luân hồi chuyển kiếp.
Sự tin tưởng ấy thấy nói
một cách bóng dáng trong Thánh kinh nhưng được giải rõ hơn trong những kinh
Phúc âm (Evangiles).
Thử xem những đoạn sau
đây:
"Nguyên dân Do Thái tin tưởng rằng theo Cựu ước,
ông Elie sẽ trở lại thế gian trước khi Ðấng Cứu Thế (Messie) ra đời. Cho nên,
khi môn đồ của Chúa Giê-su hỏi Ngài Elie đã đến chưa, Ngài đáp: Elie đã đến
rồi, mà người ta không nhận biết, song họ lại xử với Người theo ý muốn của
mình. Con người phải chịu khốn khổ với họ cũng vì vậy."
Chừng đó các môn đồ mới
hiểu rằng Ngài ám chỉ ông Jean Baptiste.
(Phúc âm Saint Mathieu, đoạn thứ 17)
Vậy, theo đoạn Phúc âm trên đây, ta thấy rõ
Chúa Jê-su ám chỉ rằng Elie đã đầu thai làm Jean Baptiste đó vậy.
Một lần khác, các môn đồ thấy một người ăn xin
đui từ trong bụng mẹ, liền hỏi Ngài:
"Bạch Thầy, người nầy trước kia
đã gây tội lỗi hay vì tội lỗi của cha mẹ làm ra mà người nầy vừa sanh ra đã mang tật đui mù?"
Câu hỏi trên đây chứng tỏ các môn đồ vốn tin có
luân hồi quả báo.
Nếu câu hỏi ấy trái hẳn chơn lý, chư môn đồ
không khỏi bị Chúa Jê-su quở trách. Nhưng Ngài chỉ đáp: "Không phải tại người ấy trước kia đã gây
tội lỗi, cũng không phải tại cha mẹ nó gây ra, mà vốn là việc làm của Ðức Chúa
Trời được tỏ ra trong người".
(Phúc âm Saint Jean, đoạn thứ 9)
Ðoạn Phúc âm sau đây càng biểu lộ rõ rệt sự tin
tưởng
về kiếp luân hồi:
Ông Nicodème, trong dòng
người Pharisiens hỏi Chúa Giê-su về kiếp tái sanh, Ngài đáp: "Thật vậy! Thật vậy! Ta nói cùng Ngươi,
không ai thấy được cõi Trời, nếu chẳng tái sanh".
Nicodème thưa rằng: "Một người đã già tái sanh thế nào
được? Người đó làm sao trở vào bụng mẹ rồi sanh ra một lần nữa?"
Chúa Jê-su lại đáp: "Thật vậy, thật vậy, Ta nói cùng ngươi,
nếu người ta không nhờ nước và Thánh linh mà tái sanh thì không vào được cõi
Trời, đừng ngạc nhiên về lời Ta bảo rằng các ngươi phải sanh lại nữa. Gió muốn
thổi đâu thì thổi, các ngươi nghe tiếng động, nhưng không biết nó từ đâu đến và
đến rồi đi đâu".
Nhận thấy Nicodème ngơ
ngác không hiểu được, Chúa lại phán: "Tại
sao ngươi là giáo sĩ dân Israël mà không lãnh hội được điều ấy?".
(Phúc âm Saint Jean, đoạn thứ 3)
Lời trách ấy chứng tỏ rằng Chúa Jê-su lấy làm
lạ sao một nhà giáo sĩ Israël lại không
hiểu sự luân hồi, vì trong thời kỳ ấy, cái giáo lý đó vốn được khẩu truyền cho
các môn đồ trí thức. Những mật lý tâm truyền lúc bấy giờ đều ghi chép trong
những kinh điển gọi là Kabbale đã có trước Cơ Ðốc Giáo.
Về sau ông Simon Ben Jochai chỉnh đốn Kabbale
dọn thành kinh Zohar nghĩa là kinh Ánh sáng.
Trong Zohar, có biên chép những khoa nội giáo
tâm truyền dành riêng cho các bực tu hành, được điểm đạo. Trong kinh ấy có nói:
"Tất
cả linh hồn khổ hạnh tiến hóa từ kiếp nầy sang kiếp khác, nhưng con người không
biết được kiếp tiền định của mình ra sao. Linh hồn không biết được phải luân
hồi bao nhiêu kiếp và biết bao nhiêu linh hồn tại thế còn phải đọa trần chưa
được phản hồi Thánh vức.
Tất cả
linh hồn sau cùng đều trở về nguyên bổn là cõi thiêng liêng, nhưng phải trong sạch như lúc giáng thế, bằng chẳng vậy
còn phải đọa trần nữa. Một kiếp không rồi thì hai, hai kiếp không rồi thì
ba, cứ luân luân chuyển chuyển như thế mãi đến
khi được hoàn toàn trong sạch mới thoát trần mà về với Thượng Ðế".
VII . Ở nước
Trung Hoa
Nước Trung Hoa từ thời Tam
Ðại đã có một nền văn minh rực rỡ.
Người Trung Hoa rất sùng tín sự cúng tế Thiên, Ðịa, Nhựt, Nguyệt, Sơn, Xuyên. Nhà vua
lập đàn Nam Giao để tế Thượng Ðế, lập nhà Xã tắc để tế Thổ Thần và Hậu tắc. Qua
đời nhà Châu, học thuyết Trung Hoa đã đến cực thạnh, Lão giáo và Khổng giáo
khởi đầu từ đấy. Lại thêm Phật giáo từ Ấn Ðộ do Sơ Tổ Ðạt Ma truyền sang rồi
Tam Giáo cùng được truyền bá khắp nơi trong nước, gieo cho nhơn dân một tín
ngưỡng sâu xa.
Lão Tử đề xướng thuyết Võ
Trụ Quan một cách cao siêu tế nhị. Ðạo của Ngài rất huyền bí, chỉ có các bọn
cao đồ hiểu thấu thôi, người khác dầu trí thức đến đâu cũng khó lòng mà lãnh
hội. Ngài không gọi Ðấng sáng lập Càn Khôn Võ Trụ là Thượng Ðế, mà gọi là Ðạo.
Trong kinh Ðạo Ðức của Ngài trứ tác, về phần thứ nhứt luận về Ðạo, ở chương XXV
Ngài viết:
"Trước khi có Trời Ðất, vốn có một Ðấng vô hình. Ôi!
Thật là yên lặng! Riêng đứng một mình không thay đổi, châu hành chẳng dứt, có
thể làm mẹ của Trời Ðất. Ta vốn không biết tên gì nên gọi là Ðạo".
(Hữu nhứt vật hổn thành, tiên Thiên Ðịa sanh.
Tịch hề giao hề! Ðộc lập bất cải, châu hành nhi bất đãi. Khả dĩ vi Thiên Ðịa
chi mẫu, Ngô bất tri kỳ danh, tự chi vị Ðạo).
Lập thuyết của Ðức Lão Tử là trước khi có Trời Ðất, chỉ có Ðạo. Ðạo là tinh thần của Trời Ðất
và vạn vật, mà Trời Ðất và vạn vật là bản thể của Ðạo. Ðạo đã vào trong lòng người rồi thì gọi là Ðức. Vậy muốn sửa mình và trị nước, phải cư xử
thế nào cho trên hợp với lẽ Trời, dưới hợp cùng luân lý.
Về sau, Ðạo của Ngài gọi là Ðạo giáo. Cuối đời
Ðông Hán, Ðạo giáo càng thạnh hành, Ðức Lão Tử được suy tôn là Thái Thượng Lão Quân.
Ngài không đề cập đến luân hồi mà lại nói rõ về
quả báo, tức là mặc nhận có luân hồi vì hai điều ấy phải nối tiếp nhau, có quả
báo tức phải có luân hồi mà trả quả.
Trong kinh Cảm Ứng, Thái Thượng nói rằng:
"Sự họa phước không có cửa (không định trước),
chỉ người vời nó đến thôi. Ðiều lành và điều dữ đều có trả như bóng theo
hình".
(Thái Thượng viết: "Họa phước vô môn, duy nhơn tự triệu.
Thiện ác chi báo, như ảnh tùy hình").
Ngoài cơ báo ứng, Ðức Lão
Tử hay Thái Thượng Lão Quân vẫn đề cập đến Quỉ Thần, như ở chương "Minh Nghĩa Ðệ Nhứt", Ngài
dạy:
"Cho nên Trời Ðất có
đặt mấy vị Thần, tùy theo tội lỗi của người nặng hay nhẹ mà bớt lộc. Lộc bớt
tất chịu nghèo, thường gặp sự buồn rầu tai nạn"
(Thị dĩ Thiên Ðịa hữu tư
quá chi Thần, y nhơn sở phạm khinh trọng dĩ đoạt nhơn toán. Toán giảm tất bần
hao đa phùng ưu hoạn).
Ðức Khổng Tử sanh vào đời
Ngũ Bá tranh hùng, nhơn dân khổ sở, phong tục suy đồi nên chủ trương của Ngài
thiên về thực tế rất nhiều. Ngài định đem luân thường đạo đức dạy người đời đối
xử với nhau thế nào cho hợp lẽ phải, chớ không truyền bá những lẽ huyền vi u
ẩn, những điều nầy Ngài chỉ truyền cho bậc cao đồ thôi. Ngài lập ra Lễ, Nhạc
tiêu biểu cho phép trật tự và luật điều hòa của Trời Ðất.
(Nhạc giả, thiên địa chi
hòa dã, Lễ giả, thiên địa chi tự dã - Sách Lễ ký).
Ðức Khổng Tử tin có Trời,
có Quỉ Thần, có họa phước, tức là lẽ báo ứng (nhơn quả).
Theo Ngài, Trời là một
Ðấng vô hình mà Ngài gọi là Lý. Lý ấy rất linh động, rất cường kiện, cao minh,
Chúa Tể cả võ trụ. Lấy nghĩa cùng tột mà nói, thì gọi là Thái Cực, lấy nghĩa
bao quát khắp thế gian, thì gọi là Thiên, lấy nghĩa làm Chúa Tể vạn vật thì gọi
là Ðế. Ấy vậy, Trời theo quan niệm của Ðức Khổng Tử, là Ðấng Thái Cực hay
Thượng Ðế.
Ðức Khổng Tử đã nhận
Thượng Ðế là Chúa Tể vạn vật, tất nhiên nhận có cái ý chí rất mạnh để điều
khiển sự biến hóa trong thế gian cho hợp với luật điều hòa, mà một khí ý chí ấy
đã định sự biến động ra thế nào, thì không ai cưỡng lại được. Ấy là Thiên mạng
hay Ðế mạng. Ðức Khổng Tử rất trọng Thiên mạng, nên Ngài bảo: "Không biết Thiên mạng thì không lấy gì
làm quân tử" (Bất tri Thiên mạng vô dĩ vi quân tử giả -Luận ngữ).
Ðức Khổng Tử rất chú trọng
sự cúng tế và trong lúc cúng tế phải hết lòng thành kính xem như có Thần tại
đó. (Tế Thần như Thần tại - Luận ngữ).
Quỉ, Thần, theo Ngài quan
niệm là khí thiêng liêng ở trong Trời Ðất, mắt người không thấy nhưng vẫn thể
được muôn vật không sai vật nào, đâu đâu hình như Quỉ Thần ở trên đầu ta, ở bên
tả, bên hữu ta (Dương dương hồ như tại kỳ thượng, tại kỳ tả hữu - Trung Dung).
Ngài tin con người có xác
và hồn. Khi con người chết, thịt xương chôn dưới đất mục nát và tiêu tan, còn
khí thiêng (tức hồn) bay lên trên không rực rỡ (Tử tất qui thổ, cốt nhục tệ ư
hạ, âm vi giả thổ, kỳ khí phát dương ư thượng vi chiêu minh - Kinh Lễ).
Về nhơn quả, Ngài bảo: "Người quân tử sợ mạng Trời, ai làm
điều quấy, trái lẽ đạo phải tội với Trời, thì còn cầu nguyện vào đâu được"
(Quân tử húy Thiên mạng hoạch tội ư Thiên vô sở đảo giả - Luận ngữ).
Ngài còn bảo: "Người làm lành, Trời lấy phước mà ban
cho, còn kẻ làm chẳng lành Trời lấy họa mà trả cho". (Vi thiện giả,
Thiên báo chi dĩ phước, vi bất thiện giả, Thiên báo chi dĩ họa - Minh Tâm).
VIII . Ở nước Nhựt Bổn
Quốc đạo của Nhựt Bổn là
một tôn giáo phát khởi tại nước họ trải mấy mươi đời chớ không phải từ ngoài
nước truyền sang. Quốc đạo ấy gọi là Thần giáo (Shintoïsme), trước hết thờ Thái
Dương Thần Nữ (Amatérosu) biểu hiệu ngôi Thái Dương (Mặt trời), kế đó thờ chư
Thần, sau nữa là thờ ông bà cha mẹ.
Người Nhựt tin có linh hồn
và sau khi con người chết, linh hồn vẫn tồn tại.
Qua thế kỷ thứ 3, vì chịu
ảnh hưởng văn hóa nước Tàu và mượn Hán tự chế ra văn tự của mình, người Nhựt
tuy hấp thụ ít nhiều giáo điều của Khổng giáo và Phật giáo truyền sang, nhưng
quốc đạo của họ vẫn không kém phần thạnh hành.
Sau cuộc Tôn giáo cải cách
1868, ngôi Thái Dương Thần Nữ được thay thế bằng ngôi Thượng Ðế. Thờ cúng,
người Nhựt thì chỉ dùng hương trà hoa quả thôi.
IX . Ở nước Việt Nam
Nước Việt Nam thuở xưa
trên 1.000 năm lệ thuộc nước Tàu, tất nhiên phải chịu ảnh hưởng văn hóa nước
nầy. Phàm phong tục và tín ngưỡng đều do học thuật và tôn giáo mà ra. Mà người
Việt khi xưa đã theo học thuật và tôn giáo nước Tàu là Nho, Thích, Ðạo rồi vào
thế kỷ 19 Thiên Chúa giáo lại truyền sang. Vậy nước Việt Nam từ xưa vốn theo Tứ
giáo, lẽ tất nhiên đã hấp thụ tín ngưỡng của bốn giáo ấy.
Gần đây, cách đâu lối ba
mươi mấy năm, ở Việt Nam lại nổi lên phong trào Tân Tôn giáo do các Ðấng Thiêng
liêng lại dùng thần cơ diệu bút giảng dạy và chủ trương. Trước nhứt Ðức Ðạo Tổ
tức Thái Thượng Lão Quân giáng lập đạo Minh Lý, có đền thờ Tam Tông Giáo Chủ là
Thích Ca, Lão Tử, và Khổng Tử, cho nên đền thờ ấy gọi là "Tam Tông Miếu".
Kế đó, Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ
Ðộ (người ngoài gọi Ðạo CAO ÐÀI) xuất thế, rồi tới Ðạo Minh Thiện, Minh Tân,
vân vân…
Những đạo nầy chủ trương
thuyết linh hồn bất diệt và Luân hồi, Quả báo.
Ðạo Minh Lý có kinh "Sám hối", cũng gọi là kinh "Nhơn quả", là một cuốn kinh
chỉ rõ lẽ báo ứng của luật Trời và khuyến khích người đời hồi đầu hướng thiện.
Về lẽ báo ứng, tức nhơn
quả, xin trích trong kinh "Sám
hối" một đoạn dưới đây:
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Ðiều họa phước không hay tìm tới,
Tại người dời nên mới theo mình.
Cũng như bóng nọ tùy hình,
Dữ lành hai lẽ công bình thưởng răn.
Khi vận thới lung lăng chẳng kể,
Lúc suy vi bày lễ khẩn cầu.
Sau bằng ở phải buổi đầu,
Thần minh chánh trực có đâu tư vì.
Người làm phước có khi mắc nạn,
Kẻ lăng loàn đặng mạng giàu sang.
Ấy là nợ trước còn mang,
Duyên
kia chưa dứt còn
đang thưởng đền.
Nếu
vội trách người trên thì đọa,
Cũng
có khi tai họa trả liền.
Ðó là
báo ứng nhãn tiền,
Mau
thì mình chịu, lâu truyền cháu con.
. . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Về kiếp Luân hồi, xin xem đoạn dưới đây:
Xuống
địa ngục đọa đày hành mãi,
Ðúng
số rồi còn phải luân hồi.
Hóa
Công xem xét đền bồi,
Lành
siêu, dữ đọa thêm nhồi tội căn.
* * *
Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ nghĩa là Ðại Ðạo phổ độ
kỳ ba, là kỳ mạt pháp nầy (Troisième Amnistie de Dieu). Ðại Ðạo do Ðức Thượng Ðế dùng huyền diệu cơ bút lập thành, tôn chỉ
là "Qui Tam Giáo, hiệp Ngũ Chi".
Vì tôn chỉ ấy, nên Ðại Ðạo ngoài Thiên lý mật truyền, còn thâu nạp lý thuyết
căn bản của Tam Giáo và Ngũ Chi, đồng thời Ðại Ðạo có trách nhiệm thuyết minh
những lý thuyết đã bị người đời, hoặc vì thời gian, hoặc vì hiểu lầm mà sai
biệt. Ðại Ðạo thờ Ðức Thượng Ðế bằng Thánh Tượng "THIÊN NHÃN".
Dưới đây là Thánh huấn của
Ðức Thượng Ðế tá danh Cao Ðài giáng cơ ngày 26 tháng 5 năm 1926 cho biết ý
nghĩa sự thờ phượng ấy:
"Chưa phải hồi các
con biết đặng tại sao vẽ "Con
Mắt" mà thờ Thầy, song Thầy nói sơ lược cho hiểu chút đỉnh:
"Nhãn thị chủ tâm,
Lưỡng quang chủ tể.
Quang thị Thần,
Thần thị Thiên,
Thiên giả Ngã dã."
"Thần là khiếm khuyết
của cơ mầu nhiệm siêu phàm nhập Thánh từ ngày Ðạo bị bế. Lập "Tam Kỳ Phổ Ðộ" Thầy cho Thần
hiệp với Tinh Khí đặng đủ Tam Bửu.
"Phẩm vị Thần, Thánh,
Tiên, Phật từ ngày bế Ðạo,thì luật lệ hỡi còn nguyên, luyện pháp chẳng đổi,
song Thiên đình mỗi phen đánh tản Thần, không cho hiệp cùng Tinh, Khí.
Thầy đến đặng hườn nguyên
Chơn Thần cho các con đắc Ðạo. Các con hiểu "Thần
cư tại Nhãn", bố trí cho chư Ðạo hữu các con biết với. Nguồn cội Tiên
Phật, yếu nhiệm là tại đó. Thầy khuyên các con mỗi khi nói Ðạo, hằng nhớ đến
danh Thầy".
Khi Ðại Ðạo vừa sáng lập,
Ðức Quan Âm Bồ Tát giáng cơ tại đàn Minh Lý, dạy dâng kinh "Sám hối"
qua cho Ðại Ðạo. Lễ tiếp kinh cử hành tại Thánh Thất Cầu Kho, cho nên Ðại Ðạo
và Minh Lý Ðạo cùng tụng một thứ kinh ấy.
Về kiếp Luân hồi, Ðức
Thượng Ðế có giáng cơ dạy như thế nầy:
"Các con đã sanh ra tại thế nầy, ở tại thế nầy,
chịu khổ não tại thế nầy, rồi chết cũng tại thế nầy, Thầy hỏi: Các con chết
rồi, các con ra thế nào? Các con đi đâu? Chẳng một đứa hiểu đặng cơ mầu nhiệm
ấy. Thầy dạy:
"Cả kiếp Luân hồi thay đổi từ trong vật chất mà
ra thảo mộc, từ thảo mộc đến thú cầm, loài người phải chịu chuyển kiếp ngàn
ngàn muôn muôn lần, mới đến địa vị nhơn phẩm. Nhơn phẩm nơi thế nầy lại chia ra
phẩm giá mỗi hạng. Ðứng bực Ðế Vương nơi trái địa cầu nầy chưa đáng vào bực
chót của địa cầu 67. Trên địa cầu 67, nhơn loại cũng phân ra đẳng cấp dường ấy.
Cái quí trọng của mỗi địa cầu càng tăng thêm hoài cho tới "Ðệ nhứt
cầu", "Tam Thiên Thế Giái", qua khỏi "Tam Thiên Thế
Giái" thì mới đến "Tứ Ðại Bộ Châu", qua khỏi "Tứ Ðại Bộ
Châu" mới vào đặng "Tam Thập Lục Thiên", vào "Tam Thập Lục
Thiên" rồi phải chuyển kiếp tu hành nữa mới đặng lên đến "Bạch Ngọc
Kinh" là nơi Ðạo Phật gọi "Niết Bàn" đó vậy…".
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển
Về Nhơn quả, có bài Thánh
huấn dưới đây, cũng trích ở Thánh Ngôn Hiệp Tuyển:
"Chư môn đệ và chư nhu nghe: Chim lìa cội, nước
tách nguồn, từ xưa con người giữa thế chẳng qua là khách đi đường, phận sự muốn
cho hoàn toàn, cần phải bền chí và khổ tâm, có bền chí mới đoạt được phẩm vị
thanh cao, có khổ tâm mới rõ tuồng đời ấm lạnh, lăng xăng xạo xự mùi chung
đỉnh, vẻ cân đai, rốt cuộc chẳng khác chi một giấc huỳnh lương mộng. Mỗi bực
phẩm đều đặng một vai tuồng của Ðấng cầm quyền thế giái ban cho, dầu thanh cao,
dầu hèn hạ, cũng phải gắng làm cho rồi trách nhiệm, hầu buổi chung cuộc, hồn
lìa cõi trần đến nơi khởi hành mà phục hồi công cán, ai giữ trọn bực phẩm đặng
Tòa Nghiệt Cảnh tương công chiết tội để vào địa vị cao hơn chốn địa cầu 68 nầy,
ai chẳng vẹn trách nhiệm nhơn sanh phải bị đọa vào nơi U Minh Ðịa để trả xong
tội tình căn quả cho đến lúc trở về nẻo chánh đường ngay mà phục hồi ngôi cũ,
bằng chẳng biết sửa mình thì luật Thiên điều chồng chập, khổ A Tỳ phải vướng
muôn muôn đời đời mà đền tội ác. Bậc nhơn sanh vì đó mà phải chịu thiên niên
chìm đắm vào sổ luân hồi vay trả, trả vay, căn quả chẳng bao giờ tiêu
đặng".
Những bằng chứng về Luân hồi
Tham khảo những kinh điển
Ðông Tây và cổ kim, chúng ta thấy có rất nhiều bằng chứng về kiếp Luân hồi.
Muốn kể hết ra ắt phải choán nhiều trương, mất nhiều ngày giờ. Chúng tôi xin
lược thuật một vài sự tích rút trong kinh điển xưa và sách vở cùng báo chí đời
nay, tưởng cũng đủ gây thành một đức tin vững chắc về cơ mầu nhiệm kiếp Luân
hồi vậy.
Những tiền thân của Ðức Ðịa Tạng
I
Theo kinh Ðịa Tạng, Ðức
Ðịa Tạng trước khi đắc quả Bồ Tát, đã phân thân nhiều kiếp độ rỗi chúng sanh.
Có kiếp Ngài sanh làm thiếu nữ, có kiếp làm nam nhơn và cũng có kiếp làm vua.
Dưới đây là sự tích Ngài chuyển sanh làm một thiếu nữ dòng Bà La Môn.
Hồi thời kỳ thượng pháp,
một người thuộc dòng Bà La Môn, sanh được một đứa con gái rất đoan trang phúc
hậu, ai cũng đem lòng kính trọng. Nhưng mẹ nàng mê theo ngoại đạo, không bao
lâu mẹ nàng mang bịnh lìa trần. Vì lúc sanh tiền đã tạo nhiều ác nghiệp, nên
Thần hồn phải theo nghiệp quả đọa lạc vào Vô gián Ðịa ngục.
Còn nàng, phần thương mẹ,
phần sợ người nặng nghiệp trầm luân, nên bán tất cả ruộng vườn, rồi sắm sanh lễ
vật đến chùa trước cúng dưng, sau cầu nguyện Ðức Phật từ bi cứu độ mẹ nàng.
Lễ bái xong, nàng nhìn
sửng tượng Phật Giác Hoa Ðịnh Tự Tại Vương Như Lai mà khóc, không chịu ra về.
Bổng từ không trung có tiếng bảo: "Thánh
nữ đừng buồn rầu khóc lóc, để Ta chỉ chỗ thác sanh của mẹ nàng cho nàng
biết".
Thiếu nữ vừa mừng vừa sợ,
liền chắp tay ngửa mặt lên mà bạch rằng: "Xin
Ngài từ bi cho biết Ngài là Ðức Thánh Thần nào mà có lòng đoái thương đến kẻ
phàm nầy vậy?".
- Ta đây là Giác Hoa Ðịnh
Tự Tại Vương Như Lai mà Thánh nữ mới vừa lễ bái. Vì thấy nàng chí hiếu nên mách
bảo cho. Vậy nàng hãy trở về ngồi yên lặng mà tưởng niệm danh hiệu ta tự khắc
sẽ biết chổ thác sanh của mẹ.
Nàng vâng lời về nhà làm y
theo lời Phật dạy, ngồi tịnh niệm trong một ngày một đêm. Bỗng nàng cảm thấy
hồn mình đi tới một bờ biển cuồn cuộn ba đào, lại có vô số ác thú chạy tung
tăng trên mặt nước, đồng thời hàng ngàn người đờn ông lẫn đờn bà lặn hụp dưới
nước, mỗi khi trồi lên lại bị bọn ác thú ấy giành nhau cắn xé. Thêm vào đó, một
bọn quỉ dạ xoa hình dung kỳ quái xúm lùa tội nhơn cho ác thú kia ăn.
Trước cảnh tượng thương
tâm khủng khiếp ấy, hồn nàng lấy làm kinh sợ, song nhờ niệm Phật mà trấn tỉnh
được.
Bổng có Vô Ðộc Quỉ Vương
thấy hồn nàng oai nghi rực rỡ, biết chẳng phải bực phàm, bèn cúi đầu thưa:
- Bạch Ðức Bồ Tát, chẳng
hay vì chuyện chi Bồ Tát thân đến chốn nầy?
Hồn nàng đáp:
- Ta nghe nói giữa núi
Thiết Vi có cảnh Ðịa Ngục, có đúng như vậy chăng?
- Bạch Bồ Tát quả đúng như
vậy.
- Ðịa Ngục là nơi giam cầm
phạm nhơn, vậy Ta có tội gì mà phải đến đây?
- Bạch Bồ Tát, đi tới đây
vốn có hai lẽ, một là các Ðấng có oai đức thần thông đến cứu độ phạm vong, hoặc
là viếng cảnh. Hai là hồn những người tội ác đến thọ khổ hình theo cái nhơn đã
tạo. Hồn nhốt nơi đây quá 49 ngày mà thân nhơn trên cõi Diêm-phù-đề không lo
làm việc công đức chuộc tội giùm cho, thì hồn ấy phải thọ khổ hình như đã định.
Bạch Bồ Tát, ở bên phía Ðông còn có một cái biển khác, nơi ấy sự hành phạt còn
khổ hơn đây bội phần. Lại bên phía Ðông biển ấy cũng có một cái biển nữa, sự
trừng phạt nơi đó không biết sao mà tưởng tượng. Tất cả ba biển ấy gọi là "Biển nghiệp".
Hồn thiếu nữ lại hỏi:
- Sao nơi đây chỉ toàn là
"Biển nghiệp", còn địa ngục ở đâu?
- Bạch Bồ Tát, địa ngục
vốn ở giữa ba cái biển ấy. Kể riêng ra thì mỗi nơi mỗi khác.
- Mẹ ta mới thác chưa bao
lâu không biết thần hồn đã giam vào ngục nào?
- Chẳng biết thân mẫu Bồ
Tát quí danh là chi?
- Cha ta tên Thi La Thiện
Hiện, mẹ ta là Duyệt Ðề Li, cả hai đều dòng dõi Bà La Môn.
Quỉ Vô Ðộc nghe nói lật
đật chắp tay bạch:
- Xin Thánh giá trở về bổn
xứ khỏi phải lo buồn vì bà Duyệt Ðề Li đã rời khỏi Ðịa ngục mà lên cõi Trời
cách đây ba ngày rồi. Ấy cũng là nhờ lòng hiếu thảo của con cầu nguyện nơi tháp
tự của Ðức Giác Hoa Ðịnh Tự Tại Vương Như Lai nên cảm đến Phật Thánh mà được
sanh về cõi Trời như vậy.
Dứt lời, Quỉ Vương chắp
tay làm lễ xin lui. Còn thiếu nữ khi tỉnh lại nhớ rõ các việc mới biết đã nhờ
Phật giúp cho hồn mình đến chỗ thác sanh của mẹ. Nàng vội vàng đến quì trước
tượng Phật Giác Hoa Ðịnh Tự Tại Vương Như Lai mà phát niệm: Nay tôi nguyện cho
đến kiếp vị lai nếu có chúng sanh nào tạo tội mà thọ khổ nơi Ðịa ngục, bất luận
là kẻ thân thuộc hay người cừu oán, tôi sẽ lập nhiều pháp môn cứu độ cho được
giải thoát.
Người thiếu nữ trên đây,
tức là tiền thân của Ðức Ðịa Tạng Bồ Tát.
II
Trong đời quá khứ bất khả
thuyết kiếp có hai vị quốc vương kết nghĩa lân bang với nhau rất hậu. Cả hai
đều phát tâm hành thiện lo giáo hóa nhơn dân cải dữ theo lành.
Song vì nhơn dân ở các lân
bang phần nhiều hay làm ác, không biết kính Phật trọng Tăng, lại mê theo Tà
giáo. Hai vị quốc vương ấy thấy động lòng thương xót bèn cùng nhau tìm phương
hóa độ chúng sanh thoát khỏi luân hồi nghiệp báo. Một vị thì phát nguyện xuất
gia tu thành chánh quả để rồi hóa độ chúng sanh. Còn một vị thì nguyện tu hạnh
Bồ Tát và nếu không độ được chúng sanh chứng quả Bồ Ðề, thì quyết không chịu
thành Phật.
Vì thứ nhứt vốn là tiền
thân của Ðức Phật Nhứt Thuyết Thí Thành Tựu.
Vì thứ nhì tức là tiền
thân của Ðức Ðịa Tạng Bồ Tát lúc chưa thành đạo.
Vì lời nguyện ấy mà trải
vô số kiếp, Ðức Ðịa Tạng chưa chịu thành Phật, cứ ở quả vị Bồ Tát, hóa thân
giáng thế phổ độ chúng sanh.
Ðức từ bi bác ái và lòng
độ sanh của Ngài thật bao la vô lượng vô biên.
III
Vô lượng kiếp trước, lúc
Phật Sư Tử Phấn Tấn Cụ Túc Vạn Hạnh Như Lai ra đời có một ông đại trưởng giả
thuộc hàng hào tộc và đức độ.
Một hôm, trưởng giả gặp
Phật trang nghiêm rực rỡ với cái kim thân cực đẹp, lòng ông lấy làm hân hạnh
nên ông đến đảnh lễ Phật và bạch: - Bạch Ðức Thế Tôn, đệ tử lấy làm kính phục
cái dung quang nghiêm trang và cực đẹp của Ngài, chẳng rõ kiếp trước Ngài làm
những hạnh nguyện gì mà kiếp nầy Ngài được cái kim thân như vậy?
Phật liền đáp: - Nếu
trưởng giả chịu phát nguyện tu hành theo đạo Bồ Tát một lòng tinh tấn, trải vô
lượng kiếp lo hóa độ chúng sanh thoát khỏi đọa, đến ngày sau cũng được thân
tướng tốt đẹp như ta vậy.
Trưởng giả nghe nói liền
quì xuống, phát nguyện rằng: "Tôi
ngưyện từ đây cho đến muôn kiếp sau, nếu chúng sanh còn thọ khổ trong lục đạo
luân hồi, tôi sẽ dùng đủ phương tiện dẫn độ đến chỗ hoàn toàn giải thoát. Ðược
vậy, tôi mới chứng quả Phật".
Vị trưởng giả đây cũng là
tiền thân của Ðức Ðịa Tạng Bồ Tát.
Nhớ bài hát kiếp trước
Năm 1912, tờ Thông Thiên
Học tạp chí "Ubtra" (Revue Théosophique), dưới ngòi bút của Ðại Úy
Florendo Battista, người nước Ý, có thuật chuyện lạ dưới đây:
Tháng 8 năm 1905, lời của
Ðại Úy, tiện nội có mang vừa được ba tháng. Trong khi nằm trên giường còn thức,
bỗng thấy đứa con gái chúng tôi chết hơn 3 năm rồi, hiện hình về nói với mẹ nó:
"Nầy má, con sẽ trở lại với má
đa". Nói xong nó liền biến mất. Tiện nội đem chuyện lạ ấy thuật lại
tôi nghe và nói nếu thiệt sanh con gái, thì nên đặt tên là Blanche, tức là tên
đứa gái đã qua đời. Tôi cho là chuyện mộng mị và mặc dầu không tin, tôi vẫn hứa
cho tiện nội vui lòng. Phải biết, thuở giờ, tôi không chịu tin cái thuyết đầu
thai nhiều kiếp.
Sáu tháng sau, tiện nội
quả sanh được một đứa gái giống hệt con Blanche, vợ tôi hết sức vui mừng. Sự
giống nhau đó, đối với tôi, không có chi là lạ, vì tôi tự nghĩ hễ có mang mà mơ
tưởng đến ai, khi sanh con, nó giống người ấy, thế thôi.
Lúc con bé được sáu tuổi,
nó càng giống thêm chị nó, cho tới lời ăn tiếng nói và nết na cũng vậy. Tuy
nhiên tôi không thế nào tin đuợc con Blanche chuyển kiếp. Kịp đến khi xảy ra
chuyện lạ dưới đây, tôi mới chịu đổi ý kiến.
Nguyên hồi trước chúng tôi
giao con Blanche cho một chị vú chăm nom tên Marie, người nước Thụy Sĩ nói rành
tiếng Pháp, mỗi lần ru em ngủ, Marie thường hát bài "Cantilène" bằng tiếng Pháp.
Sau khi con bé tôi bất
hạnh, chị vú không còn phận sự nên xin về xứ. Từ đó, trong nhà tôi, không còn
nghe bài hát ấy nữa, vả lại, có ai biết hát đâu?
Chín năm lặng lẽ trôi qua,
một hôm vợ chồng tôi đang loay hoay làm lụng khít bên phòng con Blanche em,
bỗng nghe có tiếng ai hát bài "Cantilène" trong phòng ấy.
Ngạc nhiên đến cực độ,
chúng tôi không ai bảo ai, bước vội vào phòng, thấy con Blanche em, mắt mở trao
tráo, miệng hát bài ru em ấy theo giọng Pháp một cách đường hoàng đứng đắn thật
là lạ.
Tiện nội hỏi nó hát bài
gì, nó đáp hát bài hát tiếng Pháp (mà có ai dạy nó tiếng Pháp đâu?)
Mẹ nó lại hỏi ai dạy nó
hát, thì nó nói: "Không ai dạy hết
tự một mình nó biết mà thôi".
Từ đây tôi mới chịu tin có
kiếp Luân hồi.
Cho mẹ biết trước mình sẽ tái sanh
Tờ Thần Linh Học tạp chí
(Revue Spirite) xuất bản tháng 6 năm 1938, dưới ngòi bút của bác sĩ Carmelo
Samona, thuật chuyện dưới đây:
"Ngày 15 tháng 3 năm
1910, lời bác sĩ, con gái tôi tên Alexandrine, mang bịnh lìa trần khi mới lên
năm, làm cho vợ chồng tôi hết sức buồn lòng. Sau khi chôn xong ba ngày, vợ tôi
nằm mộng thấy con bé về nói: "Má
đừng buồn khóc nữa, vì con không xa má đâu. Rồi đây con sẽ trở về với má".
Ba ngày sau vợ tôi cũng
chiêm bao thấy y như vậy, lấy làm chuyện lạ, tiện nội liền thuật lại cho một
người chị bà con nghe, thì người ấy trao cho xem một quyển sách luận về kiếp
luân hồi của tác giả Leon Denis, có ý làm cho tiện nội tin rằng con bé ấy sẽ
đầu thai lại trong gia đình nầy.
Tuy nhiên, tiện nội không
thế nào tin được, vì mới bị mổ trong lúc tiểu sản, thì làm sao chửa nghén được
nữa, nên vẫn buồn nhớ đến con mãi.
Một buổi sớm mai, gia
quyến tôi đương cùng nhau đàm đạo, bỗng nghe gõ cửa ba tiếng. Con trai tôi chạy
ra mở cửa không thấy ai hết, làm cho cả nhà hết sức ngạc nhiên. Những chuyện lạ
kỳ ấy khiến vợ chồng tôi nảy ra cái ý muốn thông công với người khuất mặt bằng
cách tiếp điển chỉ chữ trên một tấm bảng có viết mẫu tự.
Ngay trong đêm đầu, có hai
hồn giáng điển, một xưng là con Alexandrine, một xưng là Jeanne, em gái tôi
chết hồi 15 tuổi, nó nói về giúp cho hồn con tôi giáng điển. Hồn con
Alexandrine lại báo tin trước rằng trước lễ Chúa Giáng Sinh (Noël), nó sẽ trở
lại với gia đình.
Từ đây, đêm nào cũng có "cầu cơ", hồn con tôi bảo rằng
nó chỉ về được ba tháng thôi, sau thời gian ấy không về được nữa, vì nó phải
đầu thai.
Ngày 10 tháng 4 năm 1910,
tiện nội cảm thấy trong người dường như có mang.
Qua ngày 4 tháng 5, hồn
con tôi về cho hay nó sẽ trở lại dương gian với một hồn nữa đầu thai một lượt.
Mặc dầu những tin báo
trước như vậy, vợ tôi vốn chẳng nguôi ngoai, vì nghĩ rằng nếu thật hồn con
Alexandrine có đầu thai đi lại đi nữa, hình dung nó cũng không thể in hệt như
xưa. Hồn con Jeanne vẫn hiểu thấu chỗ thắc mắc ấy, nên bảo: "Adille (tên
vợ tôi) đừng lo ngại, con nhỏ sau nầy chẳng những giống hệt Alexandrine khi
xưa, mà còn đẹp đẽ hơn nữa kia.
Qua tháng 8, bác sĩ coi
nói vợ tôi thật có thai mà lại song thai nữa.
Quả thật ngày 22 tháng 01
năm 1911, vợ tôi sanh một lượt hai đứa gái khác hẳn nhau từ nước da tới mặt
mũi, nhưng một đứa lại giống hệt con Alexandrine".
Chuyện luân hồi ở Việt Nam
"Cao Ðài Tạp Chí" (Revue Caodaïste) xuất
bản bằng Pháp văn, số ra tháng Giêng năm 1931 dưới ngòi bút ông Hiến Pháp, có
thuật lại chuyện một đứa bé Việt Nam 7 tuổi nhớ được tiền kiếp của nó. Dưới đây
là bản dịch bài báo ấy:
Trong số xuất bản vào tháng
8 vừa rồi, chúng tôi có thuật sơ chuyện một đứa bé Việt Nam nhớ được những kiếp
trước của nó, và chúng tôi có hứa sẽ trở lại chuyện nầy với chi tiết đầy đủ và
rõ ràng hơn.
Nên nói rõ rằng chúng tôi
đã hai lần đến viếng đứa bé kỳ lạ ấy nơi nhà nó ở làng Ðức Lập (quận Ðức Hòa,
hạt Chợ Lớn). Lần đầu tiên, chúng tôi tiếp chuyện với nó trước mặt cha mẹ nó,
nhưng không hỏi được điều gì đáng kể, là vì đứa bé sợ cuộc điều tra của chúng
tôi nên đối với những câu hỏi của chúng tôi, nó chỉ đáp mập mờ và vắn tắt.
Ðứng trước một trường hợp
hiếm có và rất đáng khảo cứu kỹ càng, chúng tôi nhận thấy cần phải điều tra một
lần nữa với đứa bé ấy và với một người bạn thân làm giáo học ở tại Tân Phú
Thượng vì người nầy trước kia đã đem nó về ở nhà mình nhiều ngày đặng đủ thì
giờ quan sát.
Dưới đây là kết quả cuộc
điều tra thứ hai:
Ðứa bé ấy 7 tuổi, Phạm Văn
Non. Cha mẹ nó nghèo hiện ở tại Ðức Lập, một làng cách đường quản hạt số 15 lối
sáu cây số ngàn.
Một hôm, đứa bé ấy đang
chơi ở vệ đường thấy ông chú nó dắt trâu đi qua, nó liền hỏi:
- Ông chú đi đâu vậy?
Ông lão đáp:
- Tao đi đốn cây cất nhà.
- Ông nên bỏ ý định ấy đi,
vì trong 10 bữa nữa đây, ông sẽ chết kia mà.
Ông lão làm thinh bỏ đi vì
ông cho đứa bé nói đùa. Tuy nhiên, về đến nhà, ông không quên thuật chuyện ấy lại
cho cha mẹ nó cùng ít người hàng xóm được nghe.
Thế mà ông lão chết đúng y
lời tiên tri của đứa bé. Tin ấy tràn lan ra khắp cả làng, nhiều kẻ háo kỳ đổ xô
đến nhà tên Non và cật vấn nó nhiều điều. Với những người có ít nhiều học thức,
nó vui lòng đối đáp. Trái lại, đối với bọn vô luân, nó chỉ trả lời miễn cưỡng
và vắn tắt. Trong những điều phát giác của nó đáng chú ý nhứt là câu chuyện
tiền thân của nó như dưới đây:
"Trước kia, vốn lời của đứa bé, tôi đầu thai làm
đàn bà, mẹ của một vị hương chức tên C… ở Sông Tra (Ðức Hòa). Hiện giờ, trước
ngôi nhà cũ của tôi có một hàng cây. Tôi nhớ rõ có đóng lút một cây đinh trong
thân một cây cau, ngày nay vẫn còn. Trong ngày giờ nầy, người ta đương làm đám
giỗ tôi. Rất tiếc là tôi không đến dự được.
Lời tiết lộ lạ lùng và đột
ngột ấy đã khêu gợi tánh háo kỳ của một vài người, nên họ đích thân đến Sông
Tra điều tra coi có đúng như vậy chăng. Và họ hết sức ngạc nhiên mà xác nhận
điều ấy.
Ðứa bé còn quả quyết rằng
nó đầu thai một lượt với một đứa gái tên Tang, con của một cô đào hát ở gần đó.
Nghe vậy người ta dẫn nó tới rạp hát, nó chỉ ngay đứa gái ấy giữa một đám đông
con gái khác đương ngồi coi hát. Người ta hỏi thăm ngày sanh tháng đẻ của Tang
thì cũng y như ngày sanh tháng đẻ của Non.
Hiện giờ Phạm Văn Non vẫn còn
sống, lối 31 tuổi, chuyên nghề ruộng nương. Và theo lời người ta thuật lại,
càng lớn Non càng quên lần những việc về kiếp trước của mình. Phải chăng vì
không muốn bị người ta theo làm rộn mãi mà Non bảo thế?
Một hiện tượng ly kỳ về Thần linh: Một đứa bé 4
tuổi, trong những trường hợp kỳ dị nhìn nhận là cha mẹ nó hai người mà thuở nay
nó không biết
Ðó là tiêu đề và phụ đề
một bài báo đăng trong Ðuốc Nhà Nam ngày 6 tháng 9 năm 1932 dưới ngòi bút ông
Phan Thế Ngọc. Dưới đây là nội dung bài báo ấy:
"Thầy Ðội Lang làm sở
Thương Chánh ở tại Khánh Hội, trong vùng ngoại ô thành phố Saigon. Tuổi ngoài
tứ tuần, thầy lấy làm sung sướng có được một đứa con gái tên Phiên, 19 tuổi mà
sắc kiều diễm sánh bằng vẻ đẹp một đóa hoa tươi nở mùa xuân. Rủi thay! Sau một
cơn bịnh dày xéo lối vài ngày, thiếu nữ ấy mạng chung, để thương nhớ cho cha
mẹ.
Sự chết của thiếu nữ, cũng
như của nhiều người khác, không có điều gì đáng chú ý, nó sắp đi vào chỗ lãng
quên. Bỗng một hôm lại xảy ra cái hiện tượng ly kỳ dưới đây:
"Số là ngày 31 tháng
8 vừa qua, thầy Ðội Lang thấy một đứa bé trai lối 4 tuổi đương ngồi trước nhà
thầy. Ðầu tiên thầy không chú ý tới, vì tưởng đâu là một đứa nhỏ ở lối xóm đến
chơi. Nhưng, sau khi ăn cơm rồi trở ra, thầy vẫn thấy nó còn ngồi tại đó. Thầy
vờ giận đuổi đi.
Ðứa bé liền nói:
- Nhà tôi ở đây, sau lại
đuổi tôi?
Tất nhiên lời nói ấy không
khỏi làm cho thầy, vợ thầy và vài người chứng kiến lấy làm ngạc nhiên. Có người
làm lanh bảo rằng đứa bé ấy vốn là con nhà ai đi lạc và trong lúc thất thần,
ngộ nhận thầy là cha ruột nó. Nhưng thím Ðội Lang vốn giàu lòng từ thiện, dùng
lời dịu ngọt hỏi thăm cha mẹ nó tên gì và ở đâu. Ðứa bé lấy tay chỉ hai vợ
chồng thầy Ðội và nói: "Thì cha mẹ
tôi đây, nhà tôi đây, còn gì hỏi nữa?"
Thím Ðội lại hỏi nó tên
gì, mấy tuổi. Nó đáp: "Con tên Mọi,
4 tuổi".
Không muốn để ý tới mấy
lời vô lý ấy, thầy Ðội dẫn nó đi từng nhà trong xóm kiếm cha mẹ nó mà giao lại.
Ði lối 500 thước, thầy tìm được bà nội nó. Giao đứa bé cho bà lão xong, thầy
quày gót trở về, nó chạy theo khóc lóc và níu kêu: "Tía ơi! Tía ơi!". Thầy Ðội xô nó ra rồi bỏ đi. Nó liền
ngã lăn xuống đất khóc ngất lên. Thầy không thế cầm lòng, liền quay trở lại.
Thấy nó chịu nín, thầy bỏ đi nữa, nó càng chạy mau theo thầy. Bà nó thấy vậy,
không biết tính sao, bèn năn nỉ thầy đội tạm dẫn nó về nhà, đợi cha mẹ nó chiều
đi làm về sẽ lãnh nó lại.
Ở đây, nên nói rằng gia
quyến của Mọi trước kia ở Chợ Ðũi, mới về cư ngụ tại Khánh Hội lối hai tuần
nhựt và không hề giao thiệp với gia quyến thầy Ðội Lang. Vả lại, bà nội đứa bé
không bao giờ để cho cháu bà rong chơi ở hàng xóm. Bà không khỏi ngạc nhiên khi
thấy cháu bà bỗng nhiên nhìn nhận vợ chồng thầy Ðội, mà thuở nay nó không quen
biết, là cha mẹ ruột của nó.
Chiều đến, khi cha mẹ nó
tới lãnh về, nó lại không chịu theo, cưỡng bách thế nào cũng không được. Túng
thế, cha mẹ nó đành tạm để nó ở lại rồi buồn bực ra về.
Tin nầy bắn ra khắp vùng
làm cho nhà thầy Lang bữa nào cũng chật nứt khách háo kỳ. Có người cắc cớ vờ
lấy món gì của thầy Ðội, nó chạy a tới giựt cho kỳ được.
Lại có điều lạ nầy nữa là
đứa bé ấy biết rõ từng ngăn nắp trong nhà: phòng ăn, buồng ngủ, chỗ nào nó cũng
quen thuộc dường như đã ở trong nhà nầy lâu lắm rồi. Tên họ và ngôi thứ mấy
người bà con của thầy Lang đến thăm, nó đều biết cả.
Trước cái hiện tượng lạ
lùng không thể giải thích được ấy, người ta suy cứu mà tin rằng linh hồn của
con Phiên, vì cảm thấy cha mẹ vô cùng đau khổ về câu tử biệt, nên đầu thai vào
xác tên Mọi, cốt để làm dịu bớt phần nào sự đau thương của hai người vậy".
Tường thuật cái hiện tượng
nầy, mục đích của tôi là trình bày nó cho các nhà Linh hồn học để tâm suy cứu,
và mong ở họ một sự giải thích rõ ràng."
Chuyện Luân hồi ở Ấn Ðộ
Báo Pháp văn "Le Populaire", xuất bản ngày
20-8-36 tại Saigon, cho biết tại Delhi, thuộc xứ Ấn Ðộ, mới đề cử một Ủy ban
gồm nhiều vị lương y và bác học để quan sát một hiện tượng Luân hồi rất lạ.
Nguyên tại Delhi có một
đứa bé gái 9 tuổi, tên Shanti Devi, mà từ 6 năm rồi cứ nói việc kiếp trước của
nó cho cha mẹ nghe mãi. Vốn sanh trưởng tại Delhi, nàng chưa bao giờ đi đâu cả,
thế mà nàng thường ngỏ ý muốn đến thành Muttra để thăm, theo lời nàng nói,
chồng nàng là một chủ tiệm may nơi đó.
Nàng cứ nài nỉ như vậy
mãi, thét rồi cha mẹ nàng cũng phải dọ hỏi tin tức, thấy quả nhiên y như lời
nàng nói.
Vài thân nhân của chủ tiệm
may mà nàng nhận là chồng, nghe vậy bèn đến Delhi xem sao, thì nàng nhìn biết
ngay. Người chủ tiệm cũng có đến và khi bước chơn vào nhà nàng, nàng chạy lại
ôm cổ vừa reo lên: "Chồng tôi đến
đem tôi về đấy".
Nhơn chủ tiệm có dẫn theo
đứa con trai 11 tuổi, nàng chỉ và bảo là con nàng. Nàng còn cho biết nhiều chi
tiết khác về kiếp trước của nàng, và tất cả chi tiết ấy được xác nhận là đúng,
như nàng nói kiếp trước nàng sanh vào năm 1902, tên Ludgi và chết ngày 24 tháng
10 năm 1925 tại thành Agra, còn con nàng cũng sanh năm 1925.
Những lời tiết lộ ấy làm
cho những người ở Delhi vô cùng ngạc nhiên. Thế rồi, họ mở ra một cuộc thí
nghiệm. Ðược dẫn đến thành Muttra, nàng nhận biết ngay những người bà con của
chồng nàng đương đứng tại bến xe lửa.
Người ta lại đặt nàng trên
một cổ xe và lấy vải bịt mắt nàng lại, thế mà nàng chỉ đúng đường cho xe chạy,
đi ngang qua nhà ai nàng cũng chỉ mà nói đúng cả, sau rốt nàng bảo xe ngừng rồi
nói: "Nhà tôi đây".
Lúc ấy có một ông lão
trong nhà ấy bước ra, nàng gỡ tấm vải bịt mắt rồi nói: "Cha chồng tôi đây".
Diện mạo của Shanti Devi
vốn không giống Ludgi, trái lại từ giọng nói đến tánh tình và cử chỉ, thảy đều
y như của Ludgi vậy. Cho nên chủ tiệm may cho rằng Shanti Devi tức là Ludgi,
rồi muốn cầm nàng ở lại. Thế thì người mẹ mới 9 tuổi mà con lại 11. Tuy còn
phải đợi Uûy ban điều tra quyết định ra sao, nhưng chàng vẫn đinh ninh tin chắc
rằng hồn vợ chàng đã nhập vào xác con bé Shanti Devi đó vậy.
Chuyện thay hồn đổi xác
1
Chuyện thay hồn đổi xác
cũng là một bằng chứng hiển nhiên về kiếp luân hồi. Trên 40 năm về trước, tại
quận Cà Mau thuộc tỉnh Bạc Liêu (Nam Việt), có xảy ra chuyện lấy làm xôn xao dư
luận và báo giới một dạo. Ông phán Nguyễn Thành Cương có đem chuyện ấy diễn
thành kịch, rồi in phát cho dân chúng xem mà chiêm nghiệm cơ mầu nhiệm của Ðạo
Trời.
Nguyên hồi năm 1914, tại
tỉnh Bạc Liêu làng Vĩnh Mỹ, có cô Trần Thị Phuông, tuổi độ 20, con của hương
hào Trần Văn Thừa. Cô tánh tình hiền hậu, nhưng lại có cơn ngây, thường nói lầm
thầm một mình, có khi lại chết giả.
Một hôm cô chết, rồi tỉnh
lại, nhưng lại nói theo giọng người Bắc Việt, và hát điệu nhà trò, vài ngày thì
hết. Lần khác cô cũng chết đi sống lại rồi nói tiếng Trung Hoa xưng là Lý
Thắng, 13 tuổi, ở tại Hồ Quảng, vài ngày rồi cũng hết.
Lại một lần nữa, cô cũng
chết đi sống lại nhưng lần nầy cô không nhìn vợ chồng hương hào là cha mẹ. Cô
xưng tên là Trương Thị Cưu, con gái hương cả Hiếu ở Cà Mau và đòi về đó với cha
mẹ.
Vợ chồng hương hào bèn cho
người đến Cà Mau hỏi thăm hư thiệt, thì hẳn nơi đây có tên Trương Thị Cưu, con
gái hương cả Hiếu, bị bịnh thiên thời chết 15 năm về trước. Nghe chuyện lạ,
hương cả Hiếu sai con trai mình là Gấm lên Vĩnh Mỹ thử xem cho biết. Vừa thấy
Gấm, cô Phuông kêu trúng tên và hỏi thăm cha mẹ. Gấm về thuật chuyện lạ ấy lại
cho vợ chồng hương cả Hiếu nghe, thì bà cả đích thân đến nhà hương hào Thừa,
hỏi Phuông nhiều việc riêng, thì Phuông nói đâu trúng đấy. Bà lại nói: "Nếu thiệt hồn con nhập xác Phuông, thì
xuống ghe mẹ lựa coi có vật nào là dấu tích của con để lại hãy đem lên đây cho
xem thì mẹ mới tin".
Phuông bèn xuống ghe đem
lên một chiếc mùng và bảo rằng mùng đó chính của cô (hồn Thị Cưu) đã may trước
khi từ trần. Lúc bấy giờ, bà cả mới tin thiệt là hồn con bà. Rắc rối là xác Thị
Phuông, mà hồn là hồn Thị Cưu, bà không biết đối xử thế nào. Việc đem ra tới
quận Vĩnh Mỹ yêu cầu ông chủ quận H. Ng. B phân xử giùm. Ông nầy chẳng biết
sao, phải xử phân hai, dạy Thị Phuông phải lui tới cả hai nhà.
Khi Phuông trở về Cà Mau
với cha mẹ (về phần hồn), cô nhìn biết đủ mọi người trong gia thuộc, và biết
dệt chiếu bông là kỹ nghệ đặc biệt của Cà Mau.
Về cái hiện tượng kỳ dị
nầy, hồn Thị Cưu (trong xác Thị Phuông) nói rằng khi cô đau thiên thời mà chết,
nhưng không phải chết thiệt, song cha mẹ vội đem chôn, cho nên lúc tỉnh lại
không lên được phải chịu chết luôn dưới mả. Oan hồn của cô vì chưa tới số, phải
kiếm nơi nương dựa cho tới khi gặp được xác Phuông phù hợp với cô, nên mượn mà
sống lại.
* * *
2
Báo "Religo Philosophical", xuất bản tại thành Chicago (Hiệp
Chủng Quốc), dưới ngòi bút của giáo sư Hogdson, có đang chuyện sau đây, nhan đề
là "Chuyện lạ tại Watseka".
"Năm 1777, tại Watseka (Hiệp Chủng Quốc), cô Mary
Roff, 18 tuổi, mang bịnh lâm chung. Hai tháng sau khi cô từ trần, lại có gia
quyến tên Vannum về ở tại Watseka với một đứa bé gái mới một tuổi rưỡi, tên
Lurancy. Nguyên Vannum trước kia cũng có ở nơi đây, sau lại sang làm ăn ở nơi
khác, lần nầy về ở cũng chẳng lâu, rồi lại đi nữa. Lurancy chưa bao giờ biết
mặt Mary Roff. Sáu năm sau, gia quyến Vannum trở lại cất nhà cửa ở luôn tại
Watseka.
Mẹ Mary Roff tình cờ có
gặp mẹ Lurancy một lần, về sau không gặp nhau nữa, vì hai đàng ở cách xa nhau.
Kịp khi Lurancy được 18
tuổi, nàng lại đau y một chứng bịnh với Mary Roff. Thêm sự ngẫu nhiên là bác sĩ
đương săn sóc nàng trước kia cũng đã săn sóc cho Mary nữa. Lurancy, trong khi
ngọa bịnh, kể tên nhiều hồn ma nàng ngó thấy, nhứt là tên cô Mary mà thuở nay
nàng có biết là ai đâu.
Một hôm bỗng hồn Mary nhập
vào xác Lurancy, đòi đi tìm cha mẹ, bà con, chớ không chịu ở nhà Lurancy.
Thấy chuyện kỳ dị, bác sĩ
Stevens liền báo tin cho gia quyến cô Mary hay. Họ lật đật đến nhà Lurancy.
Thuở giờ Lurancy chưa hề biết gia quyến cô Mary, nhưng khi thấy họ đến nàng lại
vui mừng nhảy nhót và reo lên: "Kìa,
mẹ tôi và chị Nervie tôi đây nữa".
Bấy giờ
Lurancy theo về với gia quyến Mary. Những người quen thuộc của Mary khi trước,
nàng vẫn biết cả. Thấy mặt chị Darker và con gái chị là Nelly, là hai người trước kia nàng
thích giao thiệp, nàng liền gọi trúng tên họ. Khi trông thấy cái mũ nhung mà
Mary thường đội trước khi chết lối một năm, nàng chỉ và nói: "Ðây là cái mũ tôi đội lúc tóc còn ngắn
đó". Nàng còn lại nói lúc trước
nàng chơi dao bị đứt tay và có nuôi một con chó rất khôn mà nay đã chết rồi.
Việc gì trước kia mà Mary đã làm, bây giờ Lurancy thuật lại đều đúng y cả. Lạ
một điều là từ ngày về với gia quyến Mary, nàng Lurancy không còn biết cha mẹ
ruột và bà con của nàng nữa. Khi nào có cha mẹ ruột nàng đến thăm, phải có
người chỉ nàng mới biết, và mỗi lần muốn cho nàng về thăm cha mẹ ruột, phải có
mẹ Mary dẫn, nàng mới chịu đi. Sự thay hồn đổi xác ấy kéo dài được 4 tháng,
bỗng hồn Mary xuất khỏi xác để nhường cho hồn Lurancy nhập lại, cứ xuất đi nhập
lại như vậy trong 15 ngày, rồi hồn Lurancy chiếm lại thiệt thọ cái xác của
mình. Bây giờ Lurancy không chịu ở nhà Mary nữa, nên trở về với cha mẹ ruột của
nàng. Từ đây, những chuyện cũ của Mary, nàng đều quên cả."
Tại sao người ta nhớ được
kiếp trước?
Không khỏi có người lấy
làm lạ hỏi tại sao có kiếp luân hồi, mà chỉ có một ít người nhớ được kiếp trước
của mình thôi? Và tại sao những kẻ khác lại không nhớ được?
Muốn giải đáp được nghi
vấn nầy, cần phải nói dài dòng.
Theo nội khoa bí truyền
con người có 4 thể là:
Vật thể, tức là xác thịt
(Corps physique = Rupâ).
Khí thể hay Phách, gọi nôm
na là Vía, thuật Âm phù gọi Tướng tinh (Double éthérique = Linga - Sharira).
Thần thể hay Chơn thần
(Corps astral = Kama).
Thánh thể Phật giáo gọi là
Mạt na thức hay Truyền tống thức. Tâm lý học gọi là trí thức (Corps mental inférieur = Manas inférieur).
Nên biết, những việc của ta đã làm, tuy đã qua
rồi, dầu lâu hay mau cái ấn tượng của nó vẫn còn, nhờ vậy mới nhớ được. Cái trụ sở của ký ức (trí nhớ) vốn không phải tại
khối óc như nhiều người lầm tưởng, mà ở tại mấy thể khác (Khí thể, Thần thể,
Thánh thể). Sự thí nghiệm cho biết nếu dùng phép thôi miên trục thần một người nào, thì người ấy, trong khi ở vào trạng thái thôi miên, nhớ
lại được những việc họ đã làm
trong kiếp trước. Ðó là bằng chứng ký ức ở trong Chơn thần, tức Thần thể.
Mỗi lần chuyển kiếp, bốn
thể đều thay đổi, bốn thể cũ đã tan thì con người nhờ đâu mà nhớ được kiếp
trước chớ? Ông Platon bảo linh hồn trước khi đi đầu thai, vì uống nước sông
Léthé nên quên hết kiếp trước, cũng như người mình nói tại ăn "Cháo lú", đó chỉ là mượn lời
nói bóng mà thôi.
Có khi linh hồn mới vừa bỏ
xác thịt và phách lại được đi đầu thai liền, nên còn giữ Chơn thần và Thánh thể
cũ nhờ vậy mà lúc tái sanh, nhớ được kiếp trước, như mấy chuyện đã thuật ở mấy
trương trước.
Như trên đã nói, mỗi lần
chuyển kiếp, 4 thể cũ đã tan, để thay vào 4 thể mới, thế mà ký ức không mất, nó
chỉ rút vào nhơn hồn như những hạt giống luân hồi (atomes permanents) rút vào
đó vậy. Nhơn hồn nào trình độ tấn hóa còn thấp thỏi, khi tái kiếp không thể nhớ
được những việc đã làm cùng những điều học hỏi và kinh nghiệm ở kiếp trước, lần
lần tấn hóa thêm lên, thì nhớ được mang máng vậy thôi. Những bực thần đồng ở
vào trường hợp nầy. Lại có khi chúng ta bỗng nhiên hiểu được nhiều vấn đề đạo
lý cao siêu, không cần lý trí và học cứu. Ðó là nhờ cảm giác những điều học hỏi
và kinh nghiệm trong kiếp trước vậy. Sự cảm giác ấy gọi là trực giác
(intuition).
Cũng vì lẽ ấy mà Ðạo Nho
nói: "Bực Thánh nhơn sanh ra tự
nhiên hiểu biết, không cần học cứu" (Thánh nhơn sanh nhi tri chi).
Thần đồng
Thử xem hai đứa học sanh:
đứa nầy học được nhiều năm, đứa kia mới cắp sách đến trường. Ðứa học lâu tất
nhiên học giỏi hơn đứa mới nhập học.
Và cùng học một lớp, cùng
được một thầy ân cần dạy dỗ, tại sao đứa thông minh đứa u ám?
Lại cũng trên quả địa cầu
nầy, tại sao có dân tộc văn minh và dân tộc dã man lạc hậu?
Sự sai biệt ấy, ai cũng
biết là do trình độ tấn hóa khác nhau. Ðứa học sanh u ám, một dân tộc kém văn
minh là tại ít tấn hóa. Nói tấn hóa đây, tức là nói luân hồi chuyển kiếp. Phàm
một kiếp luân hồi là một nấc thang tấn hóa. Dân tộc dã man là dân tộc còn mới
trên đường tấn hóa, tức mới trải qua ít kiếp luân hồi, nên ít kinh nghiệm, ít
học hỏi. Trái lại, dân tộc văn minh là dân tộc đã lâu đời trên đường tấn hóa,
tức đã trải qua nhiều kiếp luân hồi, nên thâu thập được nhiều kinh nghiệm,
nhiều học thức.
Ðành rằng kiếp luân hồi là
kiếp chung cho Vạn linh, nhưng trình độ tấn hóa của một kiếp riêng con người
lại do thời gian của điểm Chơn linh dùng để tấn hóa, kể từ khi bắt đầu thác
sanh xuống thế. Cái trình độ tấn hóa thấp hay cao là do điểm Chơn linh đã trải
qua ít hay nhiều kiếp luân hồi vậy.
Các vị thần đồng là người
đã được nhiều kiếp luân hồi và trong nhiều kiếp ấy, kiếp nào cũng chuyên học
một khoa hay một nghệ thuật nào, nên học lực về các môn ấy được trổi hơn bực
thường nhơn. Vậy có nhiều hạng thần đồng, có hạng giỏi văn chương nghệ thuật,
có hạng giỏi toán pháp, âm nhạc hay hội họa,v.v…
Có thần đồng tức là có
bằng chứng về kiếp luân hồi. Ai không chịu tin có kiếp luân hồi tất không thể
dựa vào đâu mà giải thích được nguyên do cái siêu năng kỳ diệu của mấy vị thần
đồng ấy.
Thần đồng xưa và nay
Từ Âu sang Á, từ cổ cập
kim, nước nào và thời đợi nào cũng có bực thần đồng.
Bên Trung Hoa, Cam La mới
12 tuổi đã được Tần Thỉ Hoàng phong chức Thượng Khanh. Thuở ấy vua nước Yên sai
Thái Tử Ðan qua nước Tần mượn Ðại Tướng nước Tần là Trương Ðường giúp Yên đánh
Triệu. Lữ Bất Vi, tức cha ruột Tần Thỉ Hoàng, đương làm Tể Tướng cũng nói giúp
vào, nhưng Trương Ðường sợ đánh không thắng Triệu, nên quyết chẳng chịu sang
giúp Yên. Bất Vi thấy vậy lấy làm buồn bực. Cam La đương ở làm hạ khách cho họ
Lữ hay được liền nói: "Tưởng việc gì
khó, chớ việc thuyết phục Trương Ðường, tôi thấy dễ như lấy đồ trong túi".
Bất Vi giận nói: "Ta làm tới bực Tể
Tướng, một tay điều khiển muôn binh, chỉ thua vua một bực, vậy mà Trương Ðường
không chịu tuân thay, huống chi ngươi là một đứa bé, tài gì nói cho hắn nghe
theo?". Cam La cười đáp: "Vậy
ngài không nhớ thuở xưa Hạng Thác mới 7 tuổi mà thuyết phục được Khổng Tử đó
sao? Nay tôi 12 tuổi, hơn Hạng Thác tới 5, tất nhiên phải hiểu biết nhiều hơn
Hạng Thác".
Nghe lời nói khẳng khái
ấy, Bất Vi vui lòng để Cam La đi. Trương Ðường tiếp rước Cam La rồi hỏi đến có
việc chi, Cam La đáp: "Tôi đi qua
điếu tướng quân". Trương Ðường lấy làm lạ hỏi:
- Tôi còn sống sờ sờ đây
mà ngài nói vậy nghĩa là làm sao?
- Tướng quân sống cũng như
chết rồi kia.
- Xin ngài cắt nghĩa.
- Tướng quân tài không
bằng Bạch Khởi, quyền hành thì Phạm Thơ không bằng Lữ Bất Vi. Mà hồi trước Bạch
Khởi vì không tuân lịnh Phạm Thơ sai chàng đánh Triệu, nên thọ tử hình. Huống
chi họ Lữ bây giờ có đủ quyền thế mà tướng quân lại cãi lịnh, vậy có phải tướng
quân là người chết chưa chôn đó không?"
Trương Ðường nghe lời hữu
lý, giựt mình, cậy Cam La về thưa lại với Bất Vi, ông bằng lòng sang đánh
Triệu.
Cam La lại được Tần Thỉ
Hoàng sai đi sứ qua thuyết phục vua Triệu. Triệu Vương thấy Cam La còn nhỏ,
cười hỏi mỉa mai: "Bên nước Tần hết
người lớn rồi thì phải?"
- Tâu bệ hạ, người lớn thì không thiếu gì, nhưng mỗi
người phải tùy việc lớn nhỏ mà làm, lớn thì lãnh việc lớn, còn đi sứ bên nước
Triệu đây vốn la việc nhỏ, nên hạ thần tuổi nhỏ phải đi".
Vua Triệu nghe nói, lấy
làm thán phục Cam La. Nhơn cơ hội ấy Cam La mới thuyết phục được Triệu Vương
chịu dâng thành cho Tần mà xin giao hảo.
* * *
Ở nước Việt Nam, vào đời
Trần Thái Tôn, Nguyễn Hiền mới 12 tuổi được nổi tiếng thần đồng. Lúc Nguyễn
Hiền còn là một thiếu sanh, có một ông huyện nhơn nghe danh họ Nguyễn, bèn ra
cho ông câu đối sau nầy cốt để thử sức và trêu đùa:
- "Học trò là học trò con, quần áo lon xon là con
học trò".
Nguyễn Hiền chẳng cần suy
nghĩ, đối lại:
- "Ông huyện là ông huyện thằng, ăn nói lằng xằng
là thằng ông huyện".
Nghe câu đối ấy, ông huyện
chẳng những không giận mà còn thán phục thiên tài và chí khí của vị thần đồng.
* * *
Ở nước Pháp, ông Pascal
vốn là một bực thiên tài của thế kỷ 17: ông giỏi về hình học, vật lý học, triết
học, luôn cả về văn chương. Lúc mới 12 tuổi, ông đã nổi tiếng thần đồng. Với
từng ấy tuổi, ông không học hỏi sách nào thế mà đã tìm hiểu được những định lý
đầu tiên về hình học của Euclide (Premières propositions de géométrie
d'Euclide). Qua 16 tuổi, ông viết quyển "Khái luận về thiết diện hình
nón" (Traité des sections coniques), làm cho nhà triết lý vừa toán học
nước Pháp lúc bấy giờ là Descartes phải ngạc nhiên thán phục.
Nhà thiên văn học và toán
học người Ðức là ông Gauss, lúc mới lên ba, đã giải được những bài toán đố về
số học.
Ông William Hamilton, một triết gia xứ Ecosse,
hồi 3 tuổi, đã học được tiếng Hy bá lai (Hébreu), đến 7 tuổi, học lực của ông
đã trỗi hơn phần đông cử tử thi bằng thạc sĩ. Lên 13 tuổi, ông biết được 12 thứ
tiếng.
Ông Michel Ange, người
nước Ý, lúc lên 8, học nghề hội họa giỏi đến đỗi thầy dạy ông là Ghirlandajo,
bảo ông không còn gì phải học nữa.
Ông Mozart, người nước Áo,
mới 4 tuổi đã biết đánh dương cầm, đến 11 tuổi, ông đặt 2 bản hát đem diễn tại
hí viện: bản Finta Simpliste và bản Bastien et Bastienne.
Thần đồng nếu kể ra còn
nhiều lắm. Chúng tôi xin nói sơ lược vài vị thôi, và lập lại rằng nếu không có
kiếp luân hồi, tất không thể dựa vào đâu mà giải thích được nguyên do cái siêu
năng kỳ diệu của những bực phi thường ấy.

