Đại Đạo Nhập Môn - 1/4 (Nguyên-Thủy)


Mùa Hội-Yến Diêu-Trì-Cung, Thu Đinh-Hợi, vào tháng 9 năm 2007
Thay Lời Tực.
Những tài liệu trong tập sách này đều trích từ Thánh Ngôn và Tủ sách Đại-Đạo để thân gởi đến Bạn đọc.
Xin dẫn Lời Tựa của Thánh-Ngôn Hiệp Tuyển:
"Cuối Hạ Nguơn nầy, nhơn loại phần nhiều dụng hết trí não xu hướng vào lối văn-minh vật-chất; món ăn đủ sơn trân hải vị; chỗ ở lại nguy nga đài các:
y phục tiện dùng gấm nhiễu che thân, ra một tấc đường thì có ngựa xe đỡ gót. Các lạc thú hiện thời trên cõi tạm nầy làm cho con người mê mẩn; rồi đua chen nhau tranh giành phúc lộc; lăng-xăng xạo-xự trên chốn võ-đài; mạnh đặng, yếu thua khôn còn, dại mất. Phần đông bực thông minh, lại đem trí khôn làm món binh khí hại người; kẻ tước trọng lại dùng thế quyền mà đè ép dân đen ra bạc trắng. Quanh năm chỉ lo xác thân hưởng điều khoái lạc, vợ ấm con no, được ngày nào vui ngày ấy; cho kiếp chết là kiếp mất; gọi Thiên-đường, Ðịa ngục là câu chuyện hoang-đàng. Bậu bạn lỗi câu tín-nghĩa, vợ chồng quên đạo tào-khương; mảng vụ chữ kim thời mà phong dời tục đổi. Than ôi! Lượn sóng văn-minh tràn dập tới đâu thì nền luân-lý ngửa nghiêng tới đó.

Nếu Ðạo Trời không sớm mở lần ba, nền phong hóa, mối cang-thường, sau vì đó mà hư hoại.

Ðức Ngọc-Hoàng Thượng-Ðế vì đức háo sanh, không nỡ ngồi xem nhơn-sanh sa vào nơi tội lỗi nên dụng Huyền-diệu Tiên-thiên giáng cơ giáo Ðạo; hơn một năm trường tô vẽ biết bao lời châu tiếng ngọc. E dụng văn từ cao xa người thường không rõ lý, rồi ra dạy cũng như không, nên Ðấng Chí-Tôn tiện dùng Quốc-âm cho dễ hiểu.

Chư Ðạo-Hữu nhập-môn sau thời kỳ ngưng Cơ Bút.
không hữu hạnh mà nghe đến lời vàng tiếng ngọc của Ðức Ðại Từ-Bi. Nay Hội-Thánh trích lục những Thánh-Ngôn giáng cơ dạy Ðạo, in làm hai bổn để truyền bá cho mọi người thông hiểu.

Thiết tưởng, trong Ðạo-Hữu, dầu xưa dầu mới, ai có Ðạo-tâm mà không tiếp được Thánh-Ngôn nầy lại không hết dạ hoan nghinh?

Vậy xin chư Ðạo-Hữu, chư Thiện-Nam, Tín-Nữ, hết lòng trân-trọng, vì là lời châu ngọc của Phật-Trời. Cơn nhàn rảnh, nên lưu tâm đọc đến, trước là rõ thông mối Ðạo nhiệm mầu sau để trau giồi đức hạnh của mình.

Nhà nào có Thánh-Ngôn là nhà đó treo được ngọn đèn Thiêng-liêng tỏ rạng vậy.
Tòa-Thánh Tây-ninh
Hai mươi mốt tháng mười năm Ðinh-Mão.
Hội Thánh Cẩn Từ

Lời của Soạn giả:
Xin lỗi độc giả: qua hai đề tài trước đây chưa phổ biến, cũng là “Đại Đạo Nhập môn” là để biếu tặng cho hai người Bạn: Kỹ-niệm Bạn Đạo mới nhập Môn ngày 01-09-Thu Đinh Hợi (Dl: 11-10-2007). Người này đã theo Tin lành nay qua Đạo Cao-Đài. Viết ngắn gọn cho có tài liệu để về Mỹ-quốc.
Nay Soạn giả xin hoàn chỉnh để kính biếu cho đồng Đạo bốn phương.

Chương I
Nghi-thức Đại-Đạo
1 - Lời Minh thệ
2 - Lạy là gì?  
3 - Thiên bàn tại tư gia
4 - Cúng Tứ thời 

Bài I - Lời Minh thệ. Lễ Nhập môn.

Hồi lúc mới khai Đạo, Thầy dạy: Các Môn Đệ đi từ người đến trước bàn Ngũ Lôi mà thề:
1 - Lời Minh thệ:
Tên gì? Họ gì? “Thề rằng: Từ đây biết một Đạo Cao Đài Ngọc Đế, chẳng đổi dạ đổi lòng, hiệp đồng chư Môn-Đệ gìn luật lệ Cao Đài, như sau có lòng hai thì Thiên tru địa lục” (36 chữ)
Lập Minh Thệ tức là làm Lễ Nhập môn.
Hai chữ “Nhập môn” chính nghĩa là vào cửa. (Nhập là vào, môn là cửa).Vào cửa Đại-Đạo Tam-kỳ Phổ-Độ vậy.
Muốn làm Môn-đệ của Đấng Cao-Đài trước nhứt phải làm Lễ Nhập-môn. Tại sao sự tu-hành mà còn phải bắt buộc quá vậy?
Lời Thuyết Đạo của Đức Hộ-Pháp có giải rành:
“Buổi Chí-Tôn đến tạo Quốc-Đạo cho nòi giống Rồng Tiên này, chính Ngài cầm Cơ đi đến các Tỉnh, kêu từ nhà, gọi từ đứa con, cho không biết bao nhiêu bài khuyến dạy, tạo thành Tôn-giáo CAO ĐÀI  là  QUỐC ĐẠO. Tưởng chưa có người nào đem cả tinh thần, tâm đức mà thi ân cho ai dường ấy. Đức Chí-Tôn đến độ rỗi, lập giáo rồi lại bắt Minh thệ.
Hỏi tại sao Ngài lại bắt Minh thệ, buộc con cái phải hiệp đồng cùng nhau, mỗi người có một chút Đức-tin. Thầy bảo qui Đức-tin ấy lại, phải có tâm đức, tin tưởng, yêu ái lẫn nhau, phải nhìn nhận có Thầy, có Đức-tin nơi Thầy” (TĐII/42)

2 - Minh thệ là gì?
Chính là nói tắt của thành-ngữ “Minh sơn  thệ hải” tức là lời hẹn với núi, thề với biển hay còn nói là thề non hẹn biển. Là sự thề thốt đinh-ninh không dám sai lời. Nếu chỉ chính bản thân mình ước hứa e rằng có thể quên đi nên phải nhờ những chứng nhân khác làm chứng cho lời nguyện, lời hứa của mình.
Ca dao Việt-Nam rằng:
"Để lời thệ hải minh sơn,
Làm con trước phải đền ơn sinh thành."

Ở đây lời thề của người Tín hữu Cao-Đài trước khi được nhận làm Môn-Đệ của Đấng Chí-Tôn (Ông Thầy Trời) tức nhiên vào cửa Đạo phải có lời tuyên hứa nguyện trung thành với Đạo-pháp, gọi là lời Minh thệ.
Sở dĩ phải có lời Minh thệ là vì tâm lý của nhơn sanh hay thay đổi nên quyền Chí-Tôn phải buộc, cũng vì  ích lợi của chúng sanh.  Muốn được làm Môn-đệ phải:
1 - Xét mình cho kỹ trước khi vào Đạo.
2 - Khi vào Đạo rồi phải đủ Đức tin và Chí-thành.
3 - Nâng mình vào đường lối cao-thượng.
Phải cao thượng hơn chốn trần gian hèn kém và đau khổ này. Sau cùng phải tu làm sao để đạt được ngôi Thần Thánh- Tiên- Phật và cả ngôi Trời nữa, mà Đức Thượng Đế sẵn-sàng giao cho người có tâm đức, nhơn nghĩa…

3 - Ý- nghĩa  lời Minh thệ:

(Thông tri số 104/ CTĐ ngày 27-01-Tân Mão (dl: 04-03-1951) của Hội-Thánh Cửu-Trùng-Đài do Lại viện ban hành số 171/ SL ngày 06-05-Canh Tuất (dl: 09-06-1970)
Ý-nghĩa lời Minh thệ trên đây là một lời tuân hứa nhứt quyết theo cùng Đấng Thượng-Đế, để trọn tâm thi hành Thiên-Đạo và cam kết làm tròn phận sự theo lời Minh thệ.
- Điều thứ nhứt: “Thề rằng: Từ đây biết một Đạo Cao-Đài Ngọc Đế, chẳng đổi dạ đổi lòng” Là trọn nhìn một Đạo Cao-Đài của Đức Chí-Tôn, ngoài ra không đặng xu-hướng theo ngoại giáo, gây nên sự rắc rối chia ly và làm mất Đức-tin nơi cửa Đạo.
- Điều thứ nhì: Hiệp đồng chư Môn-đệ gìn luật lệ Cao Đài. Tín-đồ nhập môn rồi phải tuân hành y Luật pháp chơn truyền của Đại-Đạo là: Tân luật, Đạo Luật, Pháp Chánh-Truyền…và thi-hành các qui điều giáo huấn của Hội-Thánh để làm tròn phận sự mình. Ấy là phương hiệp đồng nhứt trí của toàn Đạo: Tín đồ, Chức việc,  Chức sắc, Hội-Thánh để nhặc gìn luật lệ Cao-Đài của Đấng Chí-Tôn.
- Điều thứ ba: như sau có lòng hai thì Thiên tru địa lục”. Ăn ở hai lòng bất trung, bất chánh, dối Thầy phản bạn và làm những việc trái với luật lệ của Đại-Đạo cùng hành động vô nhân, vô nghĩa, mất sự thương yêu, mất điều tín nhiệm, gieo rắc những điều ngờ vực, hiềm khích giữa tình đồng Đạo và manh tâm bội nghịch cùng Hội Thánh sẽ chịu luật công bình của trời đất tru diệt. (nghĩa là trời giết đất giết).
* Minh thệ đối với Luật vô vi:  
Là Thiên điều của Chí Tôn cùng các Đấng thiêng liêng: Phật, Tiên, Thánh, Thần cầm quyền trị thế. Là một ân huệ được chọn làm Môn-đệ của Đấng Chí-Tôn. Khi giữ trọn lời Minh thệ sẽ được các Đấng hộ trì, ban ân lành, đạo tâm sáng suốt, trọn vẹn đức tin, đến ngày thành công đắc Đạo được ghi tên vào Tiên-tịch.
     
* Minh thệ đối với Luật hữu hình Hội-Thánh:
Là một giá trị uy-tín đối với Đạo và Hội-Thánh. Khi giữ trọn lời Minh thệ sẽ được tín nhiệm, kính nễ, bảo trợ, hưởng mọi đặc ân với Luật công bằng Hội-Thánh.
Lời Minh thệ Nhập môn cầu Đạo là một điều rất
quan hệ của người giữ Đạo và một lời hứa trọn vẹn tín thành với Hội-Thánh cùng các Đấng Thiêng-liêng một kiếp sanh hiện tại và tương lai, phước hay tội cũng do nơi lời Minh thệ này.
Vậy toàn Đạo Nam Nữ nên thận trọng tuân y theo lời Minh thệ. Chức sắc hữu quyền: các cơ quan, chư vị Khâm châu, Đầu tộc Nam Nữ phải thông truyền lời dẫn giải Minh thệ này cho toàn Đạo tuân hành”.

4 - Thông tri của Ngọc Chánh Phối-sư:
Tiếp theo đây là Thông-tri của Ngọc Chánh-Phối sư  đề ngày 22-11-Bính Ngọ (dl: 02- 01-1967):
“Hội Thánh xin nhắc nhở chư Chức-sắc, Chức-việc cầm quyền Hành-Chánh-Đạo ở trung-ương cũng như địa phương nên nhớ lời Minh thệ trước bửu pháp Ngũ-lôi  và các Đấng Thần, Thánh, Tiên, Phật cầm quyền trị thế và làm tròn Thiên Đạo mà dìu-dắt đoàn em đều là con cái của Đức Chí-Tôn tận con đường Thánh-Đức  trong khuôn viên Luật pháp chơn truyền của nền Đại-Đạo.
“Lời Minh thệ đối với vô vi là Luật Thiên-điều rất quan hệ cho Chức-sắc Thiên-phong, Chức Việc, Bàn-trị-sự cũng như lời Minh thệ của người mới Nhập môn cầu Đạo là lời hứa trọn vẹn tín thành cùng các Đấng Thiêng-liêng và Hội-Thánh “không đổi dạ đổi lòng”. Nếu giữ tròn lời Minh thệ cho đến ngày thành công đắc Đạo được ghi tên  vào Tiên-tịch, nhược bằng trái lại thất thệ vì “lòng một dạ hai” thì rất uổng một kiếp sanh may duyên gặp Đạo”.

5 - Tính cách quan trọng của lời Minh thệ:
Vì tầm mức quan trọng của lời Minh thệ dường ấy nên Hội Thánh lúc nào cũng ân-cần nhắc nhở.
Đến khi lâm chung bài Kinh cầu hồn khi hấp-hối có câu này và chính đây là sự quyết-định do lời Minh-thệ:
Ớ! Tên họ …Thành tâm cầu nguyện,
Nguyện Chí-Tôn linh hiển độ sanh.
Ăn-năn sám hối tội tình,
Xét câu Minh Thệ gởi mình cõi thăng.

Lời Thầy cũng dạy bảo trong buổi khai Đạo rằng:
“Chư Môn-đệ đã lập Minh Thệ rồi, ngày sau tùy Âm chất mỗi đứa mà thăng, hay là tội lỗi mà giáng, song buộc mỗi đứa phải độ cho đặng ít nữa mười hai người”. (TN II / 12)

Bởi Cao-Đài Đại-Đạo ngày nay Đức Chí-Tôn có dạy rõ: trên có Tam Thập lục Thiên (36 từng trời), dưới có Tam Thập Lục động (36 cõi đất) đó là tượng trưng hai cảnh đọa thăng của con người. Vì vậy mà lời Minh thệ có 36 chữ. Điều ấy chứng tỏ rằng ai giữ đúng chơn truyền của Đại-Đạo thì đường Tiên thong-thả:
Ba mươi sáu cõi Thiên-tào,
Nhập trong Bát-Quái mới vào Ngọc-Hư.
Còn nếu người nào thất thệ với Đức Chí-Tôn thì Tam thập Lục Động lại mời.
Đức Hộ-Pháp cũng nói:
“Về phần Môn-Đệ của Đức Chí-Tôn từ buổi đem thân vào cửa Đạo, trong lúc Nhập môn đã quì trước Bửu điện có Bàn Ngũ-Lôi mà lập Minh thệ. Vậy mà:
Than ôi! Cho những người thề như vậy mà cũng không để trọn Đức tin nơi Đức Chí-Tôn lại thối bước ngã lòng, cởi áo Đạo dẹp khăn tu, mong mỏi xu-hướng theo con đường tục lụy, cho nên mới gây ra con đường lằn súng mũi đạn ngày nay.
Vậy thì ai là người thất thệ với Chí-Tôn thì phải sớm thức tỉnh tâm hồn, ăn-năn sám hối cầu xin Đại-Từ Phụ cùng các Đấng Thiêng-Liêng Từ bi ân xá tội-lỗi tiền khiên thì họa may đặng chung hưởng ân huệ của Chí-Tôn
ban cho sau này” (ĐHP: 15-9 Bính-Tuất 1946)

Vậy nên phải Xét mình trước khi vào Đạo để chính mình nhận định cho kỹ, hầu tạo cho được Đức tin và sự chí thành. Kinh có dạy:“Đạo gốc bởi lòng thành tín hiệp”.
Khi vào Đạo rồi tự mình nâng cao phẩm giá mình vào lối cao thượng. Cao thượng hơn người thường nhơn còn nhiều hèn kém và lao khổ này.

6 - Đạo mở tức là Cơ Đại-Ân-xá của Đức Chí-Tôn:

Ngài Bảo-Đạo Hồ-Tấn-Khoa có nói:
“Người mới Nhập môn vào Đạo Cao-Đài lập Minh thệ thì đặng hưởng hồng-ân là thọ phép Giải oan. Phép này rửa sạch tội tiền khiên của mình từ trước.
Phép này cũng là một Đại Ân xá những tội tình, nhưng từ ngày Nhập môn về sau thì phải gìn giữ đừng gây thêm tội mới cho đến ngày chết tức là ngày trở về với Đức Chí-Tôn (Đại-Từ-Phụ) thì được nhẹ nhàng rất nhiều rồi.
Ngoài Bí-Pháp Giải-oan  này Đức Chí-Tôn còn ban cho Pháp Tắm Thánh, pháp làm Hôn phối và đặc biệt nhứt là Phép xác và Phép độ thăng.
Người Tín-hữu Cao-Đài nào giữ được 10 ngày chay trong mỗi tháng đổ lên được thọ truyền bửu pháp tức là hưởng được Phép xác, cắt hết 7 dây oan-nghiệt. Linh hồn không còn bị ràng buộc với thi hài bởi 7 dây oan nghiệt nữa, nên được xuất ra nhẹ-nhàng về cõi Thiêng liêng Hằng sống.
Còn Phép độ thăng là để giúp cho linh hồn những Chức-sắc được nhập vào Bát-Quái-Đài dễ-dàng hơn” 

Bài 2 - Lạy là gì?

Bất cứ một Tôn-giáo nào: dù là Đạo thờ cúng Ông bà cũng vậy, dân-tộc Á-Đông này coi sự Lễ bái là đứng hàng đầu trong các nghi thức.
- Lễ bái để tỏ lòng trân trọng với một Đấng sinh thành đã cho ta một cái thân sanh là công của cha mẹ.
- Để tỏ lòng ngưỡng mộ với bậc siêu phàm như  người có công dựng nước và giữ nước. Tạo Đạo cứu Đời.
- Để tỏ lòng ngưỡng vọng với một Đấng tối thượng mà chính nhân-loại phải hết lòng bái phục là Trời.
Chung qui sự lễ bái là để phát khởi Đạo tâm. Có câu “Lễ bái thường hành tâm Đạo khởi”.
Nay, buổi Tam-Kỳ Phổ-Độ Đức Chí-Tôn giáng dạy những nghi-thức về việc bái lạy ấy, Thánh-ngôn dạy về: 
- Bái lễ:
“Khi bái lễ, hai tay con chắp lại, song phải để tay trái ấn TÝ, tay mặt ngửa ra nằm dưới, tay trái để lên trên".
 Lạy là gì? 
Là tỏ ra bề ngoài, lễ kỉnh trong lòng. 
 Chắp hai tay lại là tại sao?
- Tả là Nhựt, hữu là Nguyệt, vị chi Âm-Dương; Âm Dương hiệp nhứt phát khởi Càn-Khôn, sanh sanh hóa hóa. Tức là Ðạo.
 Lạy kẻ sống thì hai lạy là tại sao?
- Là nguồn cội của nhơn-sanh lưỡng hiệp Âm Dương mà ra. Ấy là Ðạo.
 Vong phàm bốn lạy là tại sao?
- Là vì hai lạy là của phần người, còn một lạy Thiên, một lạy Ðịa. 
Lạy Thần lạy Thánh thì ba lạy là tại sao?
- Là lạy Đấng vào hàng thứ ba của Trời và cũng chỉ rằng lạy Tinh-Khí-Thần hiệp nhứt. Ấy là Ðạo.
 Lạy Tiên lạy Phật thì chín lạy là tại sao? 
- Là lạy chín Ðấng Cửu-Thiên khai hóa.
 Còn lạy Thầy mười hai lạy là tại sao? 
Các con không biết đâu ?
-Thập nhị Khai-Thiên là Thầy, Chúa cả Càn-Khôn Thế Giái; nắm trọn Thập nhị Thời-Thần vào tay; số mười hai là số riêng của Thầy” (Thánh-ngôn I/11)

Giải-thích Cách Lạy và bắt Ấn Tý
1 - Cách lạy:
Đưa tay đã bắt Ấn kiết-quả lên trán, rồi để xuống ngực mới xá. Khi lạy xòe bàn tay ra mà úp xuống đất, ngón tay cái của bàn tay mặt đặt lên ngón cái của bàn tay trái. Tức là Lưỡng-nghi sinh Tứ tượng, tức nhiên là 4, cộng với 8 ngón còn lại là 12. Hai số này hiệp lại là 12 (4+8) Tượng cho Thập Nhị  Địa chi .
Riêng hai bàn tay có cả thảy 10 ngón tức là thập Thiên can.
Thập thiên can phối hợp với Thập nhị Địa chi thành ra một cặp Âm Dương làm nên vũ-trụ càn khôn thế giới này. Kinh Phật-Mẫu có dạy:
“Thập Thiên Can bao hàm vạn tượng,
“Tùng Địa Chi hóa trưởng Càn Khôn”
Mười Thiên can là: Giáp, Ất, Bính, Ðinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quí, hiệp với 12 Địa chi là: Tý, Sửu, Dần, Mẹo, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi, biến hóa ra hình tướng bao la Càn khôn thế giới, làm cho thế giới rộng lớn thêm lên.
Đó là Bát-Quái biến hóa vô cùng mới thành ra Càn Khôn thế giới.

2 . Giải nghĩa lạy chắp tay:
Lạy chắp tay theo ba kỳ mở Đạo, Tam Giáo:
1/ - Nhứt kỳ Phổ-Độ: Đức Thái Thượng Lão Quân giáng thế dạy Đạo Tiên, phải chắp hai tay kiết nhị, như bông sen búp. Khi lạy thì xoè hai tay úp xuống đất, cúi đầu xuống ba lạy kêu là khể thủ.
2/ - Nhị kỳ Phổ-Độ: Đức Thích Ca giáng sanh dạy Đạo Phật, thì chắp tay hiệp chưởng hoa khai. Khi lạy thì ngửa hai bàn tay để xuống đất mà cúi đầu xuống, kêu là hòa nam.
Khi Đức Khổng Tử giáng sanh dạy Đạo Thánh, cách lạy là cung tay đến mày mà lạy kêu là phủ phục.
3/ - Tam-Kỳ Phổ-Độ:
Nay Đấng Chí Tôn giáng cơ tiếp điển mở Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ. Hiệp đủ Phật, Tiên, Thánh, là thời-kỳ kiết quả độ đủ chín mươi hai ức nguyên nhân về nơi nguyên thủy. Có câu: “Thiên Địa tuần hoàn châu nhi phục thỉ Tam Giáo qui nguyên” chắp tay hoa sen đã  thành trái.
Buổi Tam-kỳ Phổ-Độ: trước khi lạy phải bắt Ấn Tý, gọi là Kiết quả, nghĩa là thời-kỳ này đã thành trái. Tu thì thành, dữ thì đọa. Thưởng phạt phân minh.
Mỗi bàn tay có 5 ngón:

- Ngón cái gọi là  mẫu chỉ (ngón mẹ của các ngón)
- Ngón trỏ gọi là  thực chỉ (chỉ đúng sự thực)
- Ngón giữa gọi là  trung chỉ (ngón ở chính giữa)
- Ngón áp út là  Vô danh chỉ (ngón tay không tên)
- Ngón út gọi là  Tiểu chỉ (ngón tay nhỏ nhứt)

Bàn tay trái thuộc Dương, bàn tay hữu thuộc Âm.
Đây là ấn của Chí-Tôn. Khởi đầu dùng ngón cái của bàn tay trái ấn lên góc ngón vô danh của bàn tay này, xong  nắm lại, đó gọi là Ấn Tý (bấm vào cung Tý) như một trái cây đã thành hạt. Đoạn bàn tay phải đỡ bàn tay trái ôm tròn lại và đầu ngón cái của bàn tay phải bấm vào cung Dần của bàn tay trái, như hình một trái cây đầy đặn.



Nay qua hội Nhơn sanh ư Dần, tức là qua Tam-Kỳ Phổ-Độ- Kiết quả - là nguơn hội mà Chí-Tôn đến mở một nền Đại-Đạo, độ hết cả quần linh về cõi Niết-bàn, chẳng để cho một điểm chơn-linh nào ở nơi Đông-Độ.
Khi ngón tay cái của bàn tay trái ấn vào cung Tý, còn lại bốn ngón của bàn tay trái này là Tứ Dương, ngón tay cái của bàn tay mặt bấm vào tay tả ở cung Dần, bốn ngón bao ngoài là Tứ Âm, hiệp chung nhau lại là Bát quái tức là tám ngón tay biểu thị cho Bát-phẩm Chơn hồn.
- Tức nhiên bốn ngón thuộc Âm là: Vật chất hồn, Thảo-mộc-hồn, Thú cầm-hồn, Nhơn hồn.
- Bốn ngón thuộc Dương là chỉ về Thần-hồn, Thánh hồn, Tiên-hồn, Phật hồn.
Ấy là buổi Tam-Kỳ Phổ-Độ này Đức Chí Tôn độ hết nhơn vật quần linh tận qui nguyên vị. Cộng chung  hai lần 4 ngón tay trên lại tức là Tứ tượng biến Bát-quái. Bát quái biến hóa vô cùng mới thành ra Càn khôn thế giái.
Tay trái (Dương) mà có ngón tay cái ở trong; đồng thời tay trái lại có ngón tay cái của bàn mặt là Âm chỉ vào, đó là trong Âm có Dương, trong Dương có Âm. Âm Dương luôn hòa quyện nhau không bao giờ xa lìa. Một Âm một Dương gọi là Đạo “nhứt Âm nhứt Dương chi vị Đạo”. Âm Dương hiệp nhứt mới phát khởi Càn Khôn.
Sách có câu: “Vô danh Thiên Địa chi thủy” là trước khi Trời Đất chưa khai, thì một khí không không, sau định hội Tý mới mở Trời, nên chữ Tý ở tại góc ngón tay vô danh. Khi mở Trời rồi mới có hữu danh vạn vật chi mẫu. Muôn vật có hình chất đều thọ nơi mẫu mới hóa sanh.
Như cách lạy nầy là thời kỳ dạy Đạo, còn người luyện Đạo cách lạy cũng hai tay kiết quả, nhưng mà khi lạy chí đất phải để hai bàn tay ngửa mới cúi đầu. Cách lạy mầu nhiệm, nghĩa lý sâu xa, chưa đến kỳ Tịnh Thất nên không dám giải diệu mầu, e lậu Thiên cơ chẳng dễ”. (Lời dạy của Đức Quyền Giáo-Tông)

Đức Chí-Tôn lập Đạo trong buổi Hạ-nguơn này thể hiện cơ tuần-huờn châu nhi phục thủy, Tôn-chỉ lấy Tam Giáo Qui Nguyên Ngũ Chi Phục Nhứt để đưa nhân-loại đến Đại-Đồng. Lấy theo nguyên-lý của vũ-trụ thì:
Thiên khai ư Tý,  trời khai vào hội Tý
- Địa tịch ư Sửu,  đất thành hình ở hội Sửu
Nhơn sanh ư Dần, có nhơn-loại vào hội Dần.
Nay là buổi “Nhơn sanh ư Dần” nên đây là phần hành của Đức Di-Lạc. Do vậy mà hình ảnh của Ngài ngự ở mặt tiền Đền-thánh, cỡi cọp để làm biểu tượng là năm Dần
* Thiên khai ư Tý: Vì trước khi trời đất chưa khai thì chỉ là một khí không không mờ mịt. Sau khi định hội Tý mới mở trời, nên chữ Tý đặt ở ngón vô danh (ngón tay không tên, gần bên ngón út, nên gọi là áp út). Có câu “Vô danh Thiên địa chi thủy” 無名天地之始 (không tên là trước khi có trời đất)
* Địa tịch ư Sửu: là khi mở trời rồi, đất mới được thành hình, do khí nhẹ bay lên làm trời, khí nặng lắng xuống thành đất. Cơ biến hóa này do Mẫu (mẹ) tượng trưng ngón tay cái trên bàn tay gọi là Mẫu chỉ. Vạn-vật hữu hình trong trời đất này đều do Mẹ tạo thành, có câu “Hữu danh vạn-vật chi mẫu” 有名萬物之母.
Đạo Cao-Đài xác nhận trong vũ-trụ bao la đều do Phật-Mẫu điều hành, Phật-Mẫu nắm cơ hữu tướng. Chí Tôn nắm phần vô tướng.
* Nhơn sanh ư Dần: Tức là nay qua Hội Dần là thời kỳ của nhơn-loại, là người. Bây giờ đủ cả “Cha, Mẹ, Con” Tam tài thống hiệp. Người đứng vào ngôi cùng với trời đất tức là Thiên-Địa-Nhân.
Đạo-pháp đã đúng hội Tam-Kỳ kiết quả. Cao-Đài xuất thế là hiệp với Thiên thơ đã định:
“Tam kỳ khai hiệp Thiên thi,
“Khoa môn Tiên vị ngộ kỳ Phật duyên”.
Do vậy mà Ấn Tý của thời kỳ thứ ba Đại-Đạo Tam Kỳ Phổ-Độ là thời kỳ Thiên Địa hoằng khai.
Đã qua ba thời kỳ mở Đạo:
- Nhứt kỳ Phổ-độ là tượng bông sen búp, nên hai bàn tay đưa thẳng ra đặt úp vào nhau.
- Nhị Kỳ Phổ-độ là tượng cái bông tàn đi, để chuyển tiếp thành trái, hai bàn tay nắm lại với nhau.
- Tam kỳ Phổ-Độ này thật sự đã thành hình, kết quả, có nghĩa là tu thì thành: Hiền thăng, dữ đọa. Nhưng khi đạt kết quả rồi không phép hưởng riêng một mình, mà phải gieo trồng lại, tiếp tục cho nhơn sanh hưởng nhờ, luân-lưu cho khắp cả Đại-Đồng thế giới cùng chung hưởng mới gọi là Phổ-độ. Xem thế là chỉ hai bàn tay mà nắm cả Càn Khôn vũ trụ. Kinh nói là “Ốc trần hoàn ư song thủ chi nội”
Chỉ-dẫn thêm (Lời dạy của Đức Quyền Giáo-Tông)
Lạy Thầy ba lạy, mỗi lạy 4 gật, mỗi gật niệm: Nam Mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát.
Lạy Phật, lạy Tiên, lạy Thánh 3 lạy, mỗi lạy 3 gật. Mỗi bài kinh đều có chỉ câu niệm rồi, không cần nhắc lại (Xem câu niệm cuối mỗi bài Kinh)
Còn xá bàn Hộ Pháp là tại Tòa Thánh và các Thánh Thất. Các nhà tư như có tuần tự, có vọng bàn Hộ Pháp mới xá. Còn nơi nào không có bàn Hộ Pháp thì không buộc phải xá. Có nhiều khi nhà tư, hoặc Lễ, Vía hiến các Đấng cũng xá, đó là sái phép.
Từ Đầu Sư đổ lên có qui vị, hoặc tuần tự, thì lạy 3 lạy, mỗi lạy 3 gật, niệm danh hiệu và tước phẩm của vị ấy.(2)
Từ Chánh Phối Sư đổ xuống Lễ Sanh thì lạy 3 lạy, không có gật.
Từ Chánh Trị Sự đổ xuống Tín đồ, lạy 4 lạy, là vì có thêm 2 lạy kỉnh Thiên và kỉnh Địa, nên mới có sự phân biệt là:
Hai lạy đầu phải quì để chỉ rõ rằng: kỉnh Thiên Địa;
Hai lạy sau thì đứng để chỉ nghĩa lạy vong phàm cho phân biệt.
Còn lạy người sống thì 2 lạy.
Nên nhớ: lấy dấu Phật, Pháp, Tăng duy chỉ có làm Lễ Đức Chí Tôn mà thôi. Còn Thần, Thánh, Tiên, Phật thì không có lấy dấu chi hết.
(1) Khi nào có Nam Nữ sắp hàng hai bên thì mới xá Đàn, còn ngoài ra thì không xá Đàn.
Phụ luc: Phần giảng dạy của Hội Thánh Cửu Trùng Đài. Châu tri số 61 đề ngày 18 tháng 8 năm Mậu Dần (Dl 10-10-1938).
(2) Như lạy Đức Quyền Giáo Tông, thì niệm Nam Mô Đức Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt.
Lạy Bà Đầu Sư Lâm Hương Thanh, thì niệm Nam Mô Đức Bà Đầu Sư Lâm Hương Thanh.

4 - Tham khảo tài liệu của Đức Quyền Giáo-Tông dạy từ buổi đầu

1/ . Cách lạy thường cúng Tứ thời:
Trước khi phải đánh ba tiếng chuông rồi, thì sửa soạn khăn áo, đèn nhang cho đủ. Như có nhiều vị cúng Đấng Từ Bi, thì phải vào Điện Thờ mà sắp bài ban, đứng cho ngay hàng hai bên.
Nghe ba tiếng chuông lần thứ nhì, thì hai bên chắp tay kiết quả, đưa chí trán mình, xá xuống chí gối (1) rồi hai bên đều khởi chơn phía trong điện mà bước vào chỗ quì, mỗi hàng ba vị. Rồi ngước lên Điện, mới đưa tay kiết quả đến trán mình, xá đến gối ba xá, phổ Thiên áp Địa gọi là Tam Tài, mới khởi chơn trái bước tới một chút, quì chơn mặt xuống trước, chơn trái quì theo cho ngay thẳng cái mình, mắt thì ngó ngay Thiên Nhãn:
- Đưa tay kiết quả lên trán chính giữa mà lấy dấu, niệm: Nam Mô Phật
- Đưa qua bên tả gần lỗ tai niệm: Nam Mô Pháp
- Đưa qua bên hữu gần lỗ tai niệm: Nam Mô Tăng
Xong rồi mới để tay kiết quả nơi ngực mình, chỗ trái tim, chớ rời ra.
- Cúi đầu lần thứ nhứt niệm: Nam Mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát.
- Cúi đầu lần thứ nhì niệm: Nam Mô Quan Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát.
- Cúi đầu lần thứ ba niệm: Nam Mô Lý Đại Tiên Trưởng kiêm Giáo Tông Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
- Cúi đầu lần thứ tư niệm: Nam Mô Hiệp Thiên Đại Đế Quan Thánh Đế Quân.
- Cúi đầu lần thứ năm niệm: Nam Mô Chư Phật, Chư Tiên, Chư Thánh, Chư Thần.
Dứt rồi, đọc bài Niệm Hương.
Dứt, lạy ba lạy. (Mỗi lạy 4 gật là 12 lạy)
Khi lạy rồi, khi ngước dậy thì đưa tay kiết quả lên trán rồi mới chắp xuống ngực. Khi mãn lễ cúng đứng dậy, cũng đứng chơn trái trước, cũng xá ba xá như trước, mới day ra bàn Hộ Pháp xá một xá, rút từ hàng đi thứ tự mà ra.

2/ - Khi lạy hai tay xòe ra đặt úp xuống,
hai ngón tay cái gác tréo nhau thành hình chữ thập, tạo thành con số 4. Ngón cái của bàn tay mặt đặt trên ngón cái của bàn tay trái tức là Âm trên Dương, có nghĩa là Âm bao Dương, vì Dương thì tán Âm thì tụ nên Âm phải giữ Dương, đó là ý nghĩa của Lưỡng nghi sanh Tứ tượng.

Tóm lại: trong cách lạy buổi Tam-Kỳ Phổ Độ này là gồm đủ các con số chỉ về Lý Dịch rất cao siêu, mầu nhiệm: hiệp đủ Âm Dương, Tam Tài, Tứ Tượng, Bát Quái, Ngũ hành. Kinh dạy rằng:“Hỗn độn Tôn sư. Càn Khôn chủ tể. Qui thế giới ư nhứt khí chi trung. Ốc trần huờn ư song thủ chi nội”..

Bài 3 - Thiên bàn tại tư gia

Đức Chí-Tôn đã đem đến cho nhân-loại một nền Chơn-Đạo và dạy cách thức thờ cúng Thầy trên Thiên Bàn, phải có đủ 12 cúng phẩm.
Thử tìm hiểu ý-nghĩa về cách thức, cùng những cúng phẩm ấy qua hai phương-diện:
- Ý-nghĩa thờ phượng.
- Lý Dịch trong Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ Tòa Thánh Tây ninh.
A - Ý nghĩa và cách sắp đặt trên Thiên Bàn:
Kinh Thiên-Đạo có dạy:
Lập vị Thượng-Đế thì phải lựa nơi nào cho tinh khiết, tốt hơn hết là giữa nhà. Lập tran  thờ cho cao và treo màn cho khuất chỗ thờ phượng”.

1 - Cách sắp đặt trên Thiên Bàn.
Theo như lời tựa dẫn giải, Hội-Thánh dạy người Đạo sắp đặt trên Thiên Bàn thờ cúng Đức Chí-Tôn theo hình chữ Chủ  với 12 phẩm vật tượng-trưng cho Thập Nhị Khai Thiên là Đức Chí-Tôn, Chúa Tể cả Càn Khôn Thế Giới, bởi số 12 là con số riêng của Thầy.
Thánh-ngôn có lời dạy rằng:
“Thập nhị Khai thiên là Thầy, Chúa cả Càn-khôn thế giới nắm trọn Thập nhị thời Thần vào tay. Số 12 là số riêng của Thầy”.
Như vậy, Thiên-bàn tượng-trưng cho cả Càn-Khôn Thế-Giới do Đức Chí-Tôn làm chủ. Ngài đến lập Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ, chính mình Ngài làm Giáo-Chủ mà độ dẫn chúng sanh khỏi kiếp luân hồi quả báo, nên người Tín đồ Đạo Cao-Đài chỉ lập bàn thờ, thờ Đức Cao-Đài là đủ, không còn phải lập bàn thờ riêng để thờ Thần, Thánh, Tiên, Phật chi riêng lẻ, chỉ làm cho mất vẻ tôn nghiêm, mà thêm rườm-rà. Lại nữa, đây là thể hiện tinh-thần Đại-Đồng của buổi nhân-loại được một nền Đại-Đạo Qui Nguyên Tam-giáo Phục nhứt Ngũ chi.
Khi sắp đặt phẩm-vật trên Thiên-bàn phải cho thật ngay-ngắn. Nếu sắp không ngay thì trật nét chữ. Trật một nét thì không chánh-đáng, rất có hại cho Đức tin của người thờ cúng là không nghiêm-chỉnh và mất đi ý-nghĩa gọi là thất pháp dần-dần làm sai lạc chơn-truyền của một nền Chánh-giáo.

2 - Ý nghĩa các cúng phẩm:
Dưới đây là phần ý nghĩa của mỗi phẩm vật thờ cúng trên Thiên Bàn:
Số 1 / - Thánh Tượng Thiên Nhãn Thầy:
Thánh Tượng Thiên Nhãn tượng trưng Đức Thượng Đế, là Đấng Thánh-Hoàng trước Ngôi Thái Cực, với quyền-năng tối thượng của Ngài.
Tuy nhiên, về hình ảnh của Thánh-Tượng trải qua nhiều thời-gian cũng có nhiều mẫu khác nhau, dù điểm  chính-yếu vẫn là “CON MẮT THẦY” như ảnh số 1 dưới đây cũng gọi là Tượng Ngũ-Chi, nhưng có dạng như Thiên nhãn Thầy đặt trên Quả Càn-Khôn, giống nơi Bát-Quái-Đài ở Toà Thánh  Tây-Ninh.
Sau đó, thì nơi tư gia Thánh-Tượng thờ theo mẫu thứ hai trong hình, cũng gọi là “Tượng Ngũ Chi” nhưng vẽ giản dị hơn, cũng có đủ Tam Trấn, Tam-giáo và Ngũ chi Đại-Đạo.
Dù dưới hình thức nào cũng nói lên quyền Chúa Tể của Càn-Khôn thế giới, theo như lời dạy:
“Thầy đã nói với các con rằng: Khi chưa có chi trong càn-khôn Thế-Giới thì Khí Hư-Vô sanh ra có một Thầy và ngôi của Thầy là Thái-Cực.
Thầy phân Thái-Cực ra Lưỡng-Nghi, Lưỡng-Nghi phân ra Tứ-Tượng, Tứ-Tuợng biến Bát-Quái, Bát-quái biến-hóa vô cùng, mới lập ra Càn-Khôn Thế-Giới. Thầy lại phân tánh Thầy mà sanh ra vạn-vật là: vật-chất, thảo mộc, côn-trùng, thú-cầm, gọi là chúng-sanh.
Các con đủ hiểu rằng:
Chi-chi hữu-sanh cũng do bởi chơn-linh Thầy mà ra, hễ có sống, ắt có Thầy. Thầy là Cha của sự-sống, vì vậy mà lòng háo-sanh của Thầy không cùng tận.
Cái sống của cả chúng-sanh, Thầy phân-phát khắp Càn-Khôn Thế-Giới, chẳng khác nào như một nhành hoa trong cội, nó phải đủ ngày giờ Thầy nhứt định mới trổ bông và sanh trái đặng trồng nữa, biến hóa ra thêm; nếu như ai bẻ hoa ấy nửa chừng thì là sát một kiếp sanh không cho biến-hóa.
Mỗi mạng sống đều hữu căn hữu kiếp, dầu nguyên sanh hay hóa-sanh cũng vậy, đến thế nầy lâu mau đều định trước, nếu ai giết mạng sống, đều chịu quả-báo không sai; biết đâu là cái kiếp sanh ấy chẳng phải là Tiên, Phật bị đọa luân-hồi mà ra đến đỗi ấy.
Cái mạng sống là Thầy, mà giết Thầy thì không phải dễ, các con gắng dạy nhơn-sanh điều ấy”. (TNII/62)

Số 2/ - Đèn Thái Cực còn gọi là Vô-cực-đăng:
Thánh Giáo có dạy:
“Thầy giải về Vô Cực Đăng”
Trước khi chưa phân Trời Đất, thì Khí Hư-vô bao quát Càn-khôn, sáng soi đầy trong vũ-trụ. Nó là một cái trung-tâm-điểm, tức là Đạo. Đạo ấy mới sanh ra Thái cực, hóa Lưỡng-nghi. Lưỡng-nghi là Âm Dương tức là động và tịnh.
Có Âm Dương rồi mới có hóa sanh muôn vật.
Ngọn đèn thờ chính giữa, là giả mượn làm Tâm đăng, Phật Tiên truyền Đạo cũng do đó, thành Đạo cũng tại đó. Đèn dầu đặt ngay chính giữa, không lay động, xao xuyến, chiếu thấu khắp cả Càn-Khôn.
Mặt Nhựt, mặt Nguyệt có lúc sáng, lúc tối, giờ khắc nào cũng tỏ rạng, không lu mờ. Nhơn vật nhờ đó mà sanh, nhờ đó mà thành, nhờ đó mà an vui.
Trời Đất nhờ đó mà quang minh trường-cửu. Người tu-hành nhờ đó mà tạo Tiên tác Phật, siêu phàm nhập Thánh. Hễ chinh qua bên trái thì Tả Đạo; dịch qua bên hữu thì Bàn-môn, ngay ở giữa là Chánh Đạo. Đạo Cao Đài ngày nay chỉ dùng hai chữ chánh và trung mà thôi.
Chúng-sanh phải nên am-tường lý ấy, lý ấy ở trong Tâm. Tâm an-tịnh vô-vi tự nhiên bất động là Chánh Đạo. Tâm còn tính mưu thần chước quỉ, độc ác hiểm sâu, ấy là Bàn-môn, tả Đạo chớ chi đâu!”

Ý - nghĩa Bông và Trái:

Số 3 và 4 - Trái cây và Bông: tức là 5 thứ hoa và 5 thứ trái hay là Ngũ hoa, Ngũ quả. Hoa quả là tượng trưng cho bốn mùa, khí hậu ôn hòa, muôn loài sanh trưởng, thảo mộc tươi nhuần, cành lá sum-xuê, đơm bông trổ trái, tức là Lưỡng Nghi sanh Tứ Tượng, Tứ Tượng tạo nên chữ (+) Thập ấy Âm Dương gác lên nhau mới ló ra bốn cánh mà gọi rằng “Tứ Tượng thành hình”. Bốn cánh ấy phân ra Đông, Tây, Nam, Bắc.
Năm thứ Trái cây tượng trưng cho Hậu Thiên Ngũ vị đối với Tiên Thiên Ngũ khí là năm cây hương hay ngũ sắc là năm sắc hoa. Trái cây còn biểu hiện cho người tu hành được thành công đắc quả (Kết trái).
Bình bông biểu-hiện cho sự xanh tươi tốt đẹp, chỉ vềTINH là hình thể con người.Năm sắc là tượng-trưng cho năm giống dân trên thế giới:Vàng, Trắng, Đỏ, Xanh, Đen.
Dâng hiến Bông, là dâng hiến thể xác của chúng ta cho Đức Chí-Tôn tùy phương sử-dụng và cầu xin Đức Chí-Tôn ban ân lành cho thể xác chúng ta được tươi tắn như hoa kia vậy.
Bởi thế, Đạo Cao-Đài không phân biệt màu da sắc tóc, coi nhau là con chung của Đấng Thượng-Đế là anh em một nhà. Ngày nào năm sắc dân trên quả địa-cầu nầy biết nhìn Đức Ngọc-Hoàng Thượng-Đế, Chúa Tể cả Càn-Khôn vạn loại là Cha chung, đồng dâng hiến lễ lên Ngài, thì ngày ấy là ngày Đại-Đồng huynh đệ, được hưởng thái bình thạnh-trị vậy.
Kinh dâng Hoa có câu:
 “Năm sắc hoa tươi xin kỉnh lễ, 
“Cúi mong Thượng Đế rưới ân thiên”.

Ý - nghĩa Nước trà và nước trắng:
Số 5 / - Nước trà (để bên hữu ấy là Âm).
Số 9/ - Nước trắng  (để bên tả ấy là Dương)
Dương là Trời, Âm là Đất.

Nước trắng: Để bên tả, tượng trưng nước Dương.
Nước Dương là nguồn nước trên Trời mưa xuống, là sự sống của Đức Chí-Tôn ban cho, để nuôi sống muôn loài vạn vật. Nguồn sống nầy có một giới hạn, có khi thiếu hụt, lắm lúc lại tràn đầy, vì đến mùa trời mới mưa. Có năm, trong giữa mùa mưa lại nắng hạn, cỏ cây vì đó phải chết đi một phần, cuộc sống của con người bị đe dọa. Có những người làm lễ cầu mưa: “Lạy Trời mưa xuống. Lấy nước tôi uống. Lấy ruộng tôi cày. Lấy đầy bát cơm. Lấy rơm đun bếp” Có khi, lại mưa tràn ngập, người cũng như vật đều bị chết đuối! Bấy giờ người dân lại cầu xin “Lạy Ông nắng lên, Cho trẻ nó chơi, cho già bắt rận, cho tôi đi cày”. Đó chứng tỏ một niềm tin tưởng nơi Phật Trời, thuận tùng thiên lý. Có câu “Thuận Thiên giả tồn, nghịch thiên giả vong” là vậy. Nghĩa là người biết làm theo ý trời thì còn, trái lại chống trời thì bị muôn vàn tai họa. Nhân-loại muốn hết tai ương hoạn-họa thì duy chỉ có một điều là biết kỉnh Phật thờ Trời mà thôi.
Nước Dương thật là thanh bạch, ấy là nước dương, nên chén nước trắng để bên tả gọi là Dương. (1)
Nước Dương là nước không có nấu, dù nước mưa hay nước giếng chỉ lọc sạch để dâng cúng mà thôi. Trong các thứ nước chỉ có nước giếng là đầy đủ tính Dương, nghĩa là không bị ảnh hưởng bởi những chất hòa tan, như rác rến, cặn bã hôi thúi. Đức Chí Tôn mở Đạo nơi đất Tây Ninh này rất thích hợp đất đai cũng là hạnh phúc cho nhân sanh buổi này: Vì chỉ dùng nước giếng thôi.

Nước trà:  Để bên hữu, ấy là Âm. Nước Âm là nguồn nước ở trong lòng đất và biển cả, sông ngòi, rạch suối. Nguồn sống của đất do Phật Mẫu ban cho, một nguồn sống triền miên vô tận. Người ở miền đất cao, thì đào đất sâu xuống làm giếng lấy nước uống Người ở đất thấp đồng bằng, thì dùng nước biển, sông, suối, rạch, ngòi, dầu mùa mưa hay nắng hạn. Người và vật cũng nhờ đó mà sống, nên chén nước trà để bên hữu gọi là Âm (Nước nấu chín để trà vào gọi là nước trà).
Chén nước trà còn tượng trưng cho Thần, tức là Linh hồn. Khi cúng rót nước đủ tám phân, tượng trưng cho “Bát hồn vận chuyển” do Đức Diêu Trì Kim Mẫu dùng Âm quang biến tạo Chơn thần.

Tám phân của chén nước Dương là tượng cho Bát Quái của Đấng Chí-Tôn.
Người tu phải coi theo đó mà hành Bát Chánh Đạo Hiểu lẽ của Âm Dương trời đất là Hòa, thì người tu cũng lấy sự hòa làm chánh yếu, chứ không vì các con số bí-pháp trên lầm hiểu, mà nhiều khi làm mất hòa trong lẽ Đạo. Đạo là hòa, là sự sống. Đây là con số biểu tượng chứ không nhứt thiết phải đo cho chính xác.
Bởi thế, con người đặt nặng tình cảm đối với Đất hơn Trời. Hầu hết con nít mới sanh ra, người ta lại đem nhao rún chôn xuống đất, nên sự sống và tình cảm của người dính liền với đất. Vì thế nên người do tình cảm thiêng liêng ấy mà không nỡ rời quê hương là nơi chôn nhao cắt rún của mình mà đi nơi khác. Cũng như người đến trong cõi trần-ai này nhưng lúc nào cũng nhớ về cõi xa-xăm kia mà luôn hướng đến việc tu-hành, tức nhiên sự tu-hành là tìm về căn cội. Thường nói người có căn tu mới đắc thành là như thế.
Đức Chí Tôn có nói:
“Kẻ phàm dầu ly hương thuở ấu xuân đi nữa, lòng hằng hoài vọng. Chí Thánh dầu bị đọa trần, lòng hỡi còn nhớ hoài nơi Tiên cảnh”.

Phật-Mẫu đến độ con cái của Ngài:
Qua Tam Kỳ Phổ Độ, Đức Chí Tôn giao cho Đức Phật Mẫu đến độ dẫn các Chơn linh để trở về ngôi vị, cũng như các con theo Mẹ để về với Cha, rồi Cha sẽ ân thưởng cho các con. Đó là hình ảnh đứa trẻ sơ sinh, nó chỉ nhờ bú hai giọt sữa của Bà Mẹ mà nó được sống mạnh khỏe hồng hào. Vì đó, mà trẻ con thương mẹ hơn cha, nên đứa bé ít theo cha hơn là theo mẹ. Nếu có theo cha là trường hợp ít có. Bởi nhỏ thường gần gũi Mẹ để được bú mớm nâng niu.
Thánh Giáo Đức Phật Mẫu dạy:
Chưa ai vào đến cõi trần nầy,
Chẳng thọ lấy Chơn Thần tay Thiếp.
Sanh dưỡng đã biết bao  căn kiếp,
Rồi dắt dìu cho hiệp với Cha.

Bằng cớ là hiện giờ, ai biết lo tu hành lập công bồi đức thì Đức Chí Tôn phong cho tước phẩm ngôi vịquí báu.
Thế nên cúng hai chén nước Âm Dương, tức là cầu nguyện cho Âm Dương hòa hiệp, hai nguồn sống được tương đồng, chúng sanh thọ hưởng sự sống trong yên lành hạnh phúc.

* Khi dâng Trà, là dâng hiến cả Chơn Thần cho Đức Chí Tôn tùy phương sử dụng và xin Đức Chí Tôn ban ân lành cho Chơn Thần được tráng kiện.
Khi Cúng xong, chúng ta đặt trọn sự tín ngưỡng nơi quyền năng Thiêng liêng tuyệt đối, thì thỉnh hai chén nước Âm Dương hòa chung mà cầu nguyện, thì nước ấy sẽ là Cam-lồ-thủy dùng cho người có bịnh uống sẽ mạnh lành, vì người ấy được hưởng một lượt với hai nguồn sống mãnh liệt là Âm Dương hiệp nhứt.
Theo ý của Thánh Huấn số 1-NCPS/TH ngày 19 tháng 5 năm Canh Tuất (Dl: 22-06-1970) của Hội Thánh Cửu Trùng Đài dạy: Chén nước trắng không được nấu, nếu nấu sôi thì chết Dương, tuyệt cơ sanh hóa..

* Ý - nghĩa ba ly rượu:
Số 6-7-8 là Ba ly rượu: Ba ly rượu tượng-trưng cho Khí, tức là Hư-vô chi-khí, do Đức Diêu Trì Kim-Mẫu Chưởng quản.
Khí là cái Phách hay trí-não của con người chúng ta, cũng là Chánh-khí trong người.
Ba ly rượu là tượng-trưng cho ba cõi: Hạ-giới, Trung-giới, Thượng-giới. Ba cõi này dành cho các phẩm từ quỉ-nhơn, phàm-nhơn và Thần Thánh Tiên Phật. Khi cúng rót rượu ba phân tượng-trưng cho ba bậc tu-hành: Hạ-thừa, Trung-thừa, Thượng-thừa hay là ba bậc quỉ nhân, hóa-nhân và nguyên-nhân. Ngày nay Cơ Đại ân xá của Chí-Tôn cho về cùng một lượt.
Kinh Phật-Mẫu có câu:
“Trùng huờn phục vị Thiên môn,
“Nguơn linh, Hóa chủng, Quỉ hồn nhứt thăng”
Khí là trí não đứng trung-gian đặng liên-hiệp với Tinh và Thần, họp lại mới đủ Tam-bửu. Nên khi dâng Tam-bửu thì chén nước trà để bên hữu (Tinh), chính giữa là ba ly rượu (Khí) Bên tả là nước trắng (Thần), nên gọi là Tinh- Khí-  Thần hiệp nhứt.
Thế nên buổi đầu tiên ba vị Tiên-Nương chính thức đến dạy Đạo cho các vị: Cư, Tắc, Sang là Lục Nương, Thất Nương, Bát Nương chính là các con số: 6, 7, 8 cũng đồng nghĩa là chữ Khí tượng cho ba ly rượu ấy. Nhưng Thất Nương đến trước tiên là số giữa trong ba con số, cũng là dụng chữ Chánh và trung đó vậy.
Thể pháp của Đạo Cao-Đài đã đủ cả Tam ngôi:
Về mặt Tôn-giáo:
“Là một cơ cấu hữu-vi thì cũng không ngoài luật ấy, nên trước tiên cần có đủ chủ hướng là Tinh-thần ấy là Tín-ngưỡng, chủ Tinh-thần  là linh hồn của Đạo-giáo, mà linh hồn của Đạo Cao-Đài là Đức Chí-Tôn chủ về cực Dương .
Một Tôn-giáo muốn sống bền vững và phát triển tốt đẹp thì Tôn giáo ấy có đủ Tam-bửu:

TINH, KHÍ, THẦN.
- Về Thần: thì khi lập Đạo Cao-Đài, Thần đã sẵn có do Đức Chí-Tôn làm chủ linh hồn của Đạo-giáo.
- Về Khí thì buổi phôi thai chưa mấy tựu thành nên Đức Chí-Tôn mượn hình thể Diêu-Trì-Cung làm  Khí.
- Về Tinh là hình thể của Đạo Cao-Đài tức là ba chi PHÁP-ĐẠO- THẾ tượng trưng là: Hộ-Pháp, Thượng Phẩm, Thượng-Sanh.
Tức nhiên Đức Chí-Tôn đã cho hiệp Tam bửu.
* Lư Hương  và ý-nghĩa 5 cây hương:

Số 11 là Lư Hương: Lư hương tượng trưng Càn Khôn vũ-trụ và sự sanh biến vô cùng, tức là Tứ Tượng biến Bát-Quái, Bát-Quái biến-hoá vô-cùng mới tạo ra Càn khôn thế giái.
Ý - nghĩa 5 cây hương: Kinh Nhựt Tụng có dạy:
“Khi cúng Thầy phải đốt cho đủ 5 cây hương, cắm hàng trong ba cây gọi là: Án Tam Tài; thêm hàng ngoài hai cây nữa gọi là Tượng Ngũ Khí”.
Đức Hộ-Pháp giải:
“Năm cây hương tượng Ngũ khí mà biến thành Ngũ-hành vận chuyển cả càn khôn thế-giới tức là Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ.
“Mỗi chất đều có mỗi sắc, mỗi sắc đều có mỗi khí, mùi vị và sanh quang của nó chúng ta không thể hưởng được, nghe được, nên khi làm lễ  đốt đủ năm cây nhang là đúng theo phép tín-ngưỡng là qui pháp lại, mọi vật trong Ngũ khí dâng lễ cho Chí-Tôn chỉ có Người vui hưởng qui pháp ấy mà thôi, cắt nghĩa rõ-rệt là NGŨ KHÍ đó vậy.
“Đúng hơn nữa là trong Bát hồn vận-chuyển được phải nhờ đến Ngũ-khí cùng một ý-nghĩa “vạn vật đồng thinh niệm Chí-Tôn”.

* Cách cắm hương:
Khi đốt năm cây hương, xá ba xá, chúng ta phải:
- Cắm cây thứ nhứt ngay giữa bình hương, tượng trưng cho Ngôi Thiên là Phật.
- Cắm cây thứ nhì vào bên trái của chúng ta, tượng trưng cho Ngôi Địa hay là Pháp.
- Cắm cây thứ ba về bên phải của chúng ta, tượng trưng cho Ngôi Nhơn hay là Tăng.
- Trở lại cắm cây thứ tư bên trái chúng ta gọi là Âm.
- Cắm cây thứ năm trở về bên phải của chúng ta gọi là Dương; ấy là Âm Dương nhị Khí, hiệp với ba cây hàng trong mới gọi là tượng Ngũ Khí.
Bây giờ phân ra Ngũ Khí, chúng ta sẽ thấy:
Ba cây hàng trong:
- Cây ở giữa thuộc về Hỏa khí, tượng là Trời (Thiên).
- Cây ở bên trái ta thuộc về Thổ khí, tượng là Đất (Địa).
- Cây bên phải  thuộc về Kim khí, tượng về Người (Nhơn)

Hai cây hàng ngoài:
- Cây ở bìa bên trái ta thuộc về Thủy khí, tức là Âm.
- Cây ở bìa bên phải ta thuộc về Mộc khí, là Dương.
Sở dĩ người tu hành phải thắp hương nơi tôn nghiêm là tạo sự dịu dàng, thơm-tho; gây một sự cảm ứng với các Đấng huyền linh, là Đạo; mà trước nhất người phải định cái tâm là chỗ đứng của mình, con số 5 là con số chỉ cái tâm đó vậy.
Người không làm lệch lẽ yêu-ái của trời đất  đó là biết đến mệnh, cho nên hai chữ số mệnh đi liền nhau.

Cắm hương hai hàng thẳng nhau hay đặt xen kẽ?
Nếu bình hương vuông tượng đất (Âm) thì nhang cắm xen kẽ, xem như tạo thành vòng tròn ấy là Dương. Nếu bình hương tròn tượng Dương thì cắm hương theo hình vuông tượng Âm. Ấy là Âm Dương hoà hiệp.

* Ý - nghĩa Hai cây đèn:
10 và 12: Hai cây đèn: Gọi là Lưỡng Nghi Quang, tượng trưng cho Nhựt Nguyệt, Âm Dương soi sáng khắp cả Càn Khôn Vũ Trụ, tức là Thái Cực sanh Lưỡng Nghi.
Hai cây đèn này cùng hiệp với Thái cực đăng ở trên sẽ đủ vào con số 3 là chỉ một sự tròn đầy viên mãn. Tức là tạo nên một tam giác đều. Ý-nghĩa một mà ba, mà ba cũng là một vây. Bởi đây là thời-kỳ cùng cuối của một chu-kỳ. Tất cả đều được an bày do quyền năng của Đấng Chí-Tôn, đó là Mệnh. Người nhìn vào các con Số đã sắp đặt để hiểu. Nên được gọi là Số mệnh.

3 - Thiên-bàn thờ Chí-Tôn hiện đã sửa sai pháp:
Thầy đã dạy trên Thiên bàn thờ Chí-Tôn hình chữ CHỦ  tức là gồm 12 món cúng phẩm, đặt thành 3 hàng ngang tạo thành hình quẻ Càn  Càn vi thiên (Càn là trời) tức là chỉ ngôi Thượng Đế Thái-cực Thánh-Hoàng vi chủ. (Xem lại trang 20)
Nhưng ngày nay cũng đặt 12 món cúng phẩm ấy nhưng sửa lại để bông và trái xuống cấp dưới, nghĩa là làm mất đi một đường ngang, bấy giờ còn lại là hình chữ THỔ (thổ là đất) thì trở thành quẻ Khôn  khôn vi địa (địa là đất) là thời Âm. Âm thạnh tất Dương suy. Đạo bị bế là vậy. Bởi hằng ngày Ta chỉ lạy vào chữ “Thổ” mà thôi.
Nhìn lên Thiên bàn, một lỗi-lầm như trên ta thấy ra rất nhỏ, hầu như không một ai chú-ý, nhưng chiều sâu rộng thật tai hại vô cùng, Đạo bị thất pháp là do đó. Người tu không thành do đó. Người bảo thủ Chơn-truyền cũng phải biết phân biệt bấy nhiêu đó.
Thầy dạy:
“Thiên Địa hữu Âm Dương, Dương thạnh tắc sanh, Âm thạnh tắc tử. Cả Càn khôn thế giới nhờ Dương thạnh mới bền vững, cả chúng sanh sống bởi Dương quang, ngày nào mà Dương-quang đã tuyệt, Âm-khí lẫy lừng, ấy là ngày Càn Khôn thế giới sẽ chịu trong hắc ám, mà bị tiêu diệt…” (Pháp Chánh-truyền Nữ phái)

4 - Thất pháp như thế nào?

Điều này Thầy có nói với Hộ-Pháp khi Ngài giao quyền cho Hộ-pháp xuống thế mở Đạo.
Nhắc lại lời Đức Hộ-Pháp có thuật lại rằng:
Bần-Đạo vâng lịnh Đức Chí Tôn xuống thế mở Đạo, thì Đức Chí-Tôn mới hỏi rằng:
- Con phục lịnh xuống thế mở Đạo, con mở Bí-pháp
trước hay là mở Thể-pháp trước?
Bần-Đạo trả lời: - Xin mở Bí-pháp trước.
- Chí-Tôn nói:
- Nếu con mở Bí-pháp trước thì phải khổ đa!
Đang lúc đời cạnh-tranh tàn bạo, nếu mở Bí pháp trước, cả sự bí-mật huyền-vi của Đạo, Đời thấy rõ xúm nhau tranh giành phá hoại thì mối Đạo phải ra thế nào?
Vì thế nên mở Thể-pháp trước, dầu cho đời quá dữ có tranh-giành  phá hoại cơ thể hữu-vi hữu-hủy đi nữa thì cũng vô hại, xin miễn mặt Bí pháp còn là Đạo còn.
* Bí-pháp là Hiệp-Thiên-đài giữ.
* Thể-pháp là Cửu-trùng-đài mở-mang bành trướng”
Ấy vậy người Tín hữu Cao-Đài phải nắm vững Thể-pháp của Đại-Đạo để rõ thông về mặt Bí-pháp. Dầu cho mặt Thể-pháp có cải đổi đi nữa nhưng người Tín hữu đã hiểu thông rồi cũng vô hại. Nhắc lại lời Thầy đã nói “dầu cho đời quá dữ có tranh-giành phá hoại cơ thể hữu vi hữu-hủy đi nữa thì cũng vô hại, xin miễn mặt Bí pháp còn là Đạo còn.”
Như vậy trách nhiệm của người Tín-hữu Cao-Đài là phải rõ thông Thể pháp của Đạo mới mong am tường Bí pháp của thời Tam-Kỳ Phổ-Độ này.

B - Xá chữ KHÍ:
Tại sao khi cúng xong rồi phải quay ra ngoài Xá chữ Khí? Khí là gì?
- Khí  là sự sống, đây là viết đủ nét. Bên trái có bộ mễ   Mễ là gạo. Tức nhiên người dùng gạo (hay các thứ ngũ cốc) mà nấu lên cho bốc hơi, dùng vật dụng hứng lấy chất hơi ấy, nó sẽ ngưng đọng lại mà thành một thứ rượu. Rượu là do Khí bốc hơi mà thành. Vì vậy Lễ cúng có rượu tượng cho KHÍ.

1 - Tại sao Đạo Cao-Đài thờ CHỮ KHÍ?
Chữ Khí  ở sau ngai Hộ-Pháp (Hiệp-Thiên-Đài
Đền Thánh Tòa-Thánh Tây-ninh). Riêng nơi các Thánh Thất thì chữ KHÍ  thờ nơi bàn Hộ-Pháp đều có chung một ý-nghĩa là KHÍ SANH QUANG của Càn khôn vũ-trụ, vạn vật nhờ Khí sanh quang hiện tượng ra mặt thế để bảo tồn cơ sanh hóa hay tấn hóa của toàn thể vạn loại tức là hữu sanh.
“Từ buổi trời đất biến sanh đã có cái khối Nhơn linh ấy là Cha của chơn linh, Cha của nhất điểm linh quang. Làm sao chúng ta hiểu linh quang ấy?
Vì ta xét từ trước: Đức Chí-Tôn dùng cái thanh khí ấy mà tạo ra loài người với đất, do thanh khí ấy mà biến thành vạn-vật. Loài người đến nay nhờ tiến hóa mà khôn ngoan cũng như vạn-vật, nhờ tấn hóa mà cũng được toàn năng, toàn tri vậy.
Các nhà triết học luận bàn đã nhiều, nhưng xét ra cũng không ai hiểu rõ nguyên-căn ấy.
Phật-giáo nói cái khối linh ấy phân tánh của mình ban bố ra cả vạn-vật, khối linh ấy trước khi phân tánh gọi là BRAHMA là Phật, đến khi phân tánh rồi thì Đấng thứ nhì là CIVA chủ về Pháp, Đức chí-linh cầm quyền-năng biến chuyển chứ không cầm quyền năng tạo đoan.
PHÁP vận hành mà sanh ra Khí, nên ta thấy mênh mông trước mắt ta là Khí.
Vậy Khí là gì?
Khí là khối sanh quang vạn-vật nhờ thở khí ấy mà sống, cho nên chữ KHÍ là sự sống của vạn-vật, do KHÍ là PHÁP biến tướng ra vạn-vật. Thế nên Đấng thứ nhì Chưởng quản cái sanh khí ấy thường gọi là “2è Logos” thuộc Âm cũng là Phật-Mẫu Chưởng quản cả cơ-quan tạo đoan này vậy.
Như chúng ta thấy cơ-quan sanh-hóa vạn-vật và loài người là do Âm Dương phối hợp mà biến tướng.
Phật chiết tánh biến ra Pháp là ngôi thứ nhì thuộc Âm là Phật-Mẫu, nhưng chúng ta không biết cái Bí-mật ấy là khi Âm Dương phối hợp biến hình, mà Phật-Mẫu dùng gì để tạo nên cơ-quan hữu vi này. Vì bởi Phật-Mẫu dùng khối sanh quang ấy có năng lực vận hành trong không khí, chúng ta không thể thấy được. Khí biến ra hữu tướng là: Nước, Lửa, Gió. Rồi nước, lửa, gió vận hành ra vạn-vật, đi từ Hỗn-Nguơn-Khí, Hư-vô-khí đến Huyền-ảnh-khí rồi mới biến ra vạn-vật, tức là Huyền-Ảnh-khí biến ra Nhơn hình vậy.
KHÍ mà khoa-học gọi là Nguyên-tử-khí (Atome). Nguyên-tử-khí có năng-lực vô biên mà loài người đã đoạt được để dùng, chứ không biết nguyên căn và nguyên tánh của nó đã đi đến mức nào. Kể từ ngày loài người tìm được nguyên-tử-chất và dùng được cái nguyên-tử-khí ấy là cái khí sanh của vũ-trụ mà họ có biết đâu một ngày kia phàm thế sẽ nương nhờ nguyên-tử-khí ấy mà Qui nguyên Thánh thể.
Thử hỏi Đức Chí-Tôn cho nhơn-loại đoạt nguyên tử-khí ấy để làm chi? Chúng ta cũng nên tìm hiểu cái huyền-vi bí-mật ấy mà dù cho Đạo nào cũng vẫn còn đương mơ tưởng  để kiếm hiểu. Ngày hôm nay nguyên-tử khí dùng để giết người thì biết đâu sau này nó sẽ là phương cứu tử huờn sanh cho người và nó sẽ đem loài người đến địa vị trường sanh bất tử. (TĐ I/ 45-46)
Bởi nguyên-tử-khí là căn nguyên sự sống của vạn loại, nếu nó đã làm chết người được thì nó cũng sẽ làm sống được. Cái Khí ấy sanh trước hết là Nước, lửa, gió vận hành tạo ra hữu hình là vạn-vật. Vì cớ mà con người đối với vũ-trụ hình ảnh thế nào thì tạo đoan cũng thế ấy, nên mới lấy Càn khôn làm Đại Thiên Địa, còn con người là Tiểu Thiên Địa. Mạng sanh của con người đồng thể cùng Càn khôn tức là sự sống phải tương liên với Chí-Tôn mà Chí-Tôn lại cầm quyên năng vô đối.

2 - Tại sao phải Xá chữ khí?
Người Tín hữu khi làm Lễ Đức Chí-Tôn xong liền quay ra phía sau bàn Hộ-Pháp Xá chữ KHÍ, nghĩa là gì?
Đức Hộ-Pháp giải như sau:
“Cái Xá ấy chẳng phải làm Lễ trọng Chức-sắc Hiệp Thiên-Đài từ lớn đến nhỏ, mà là Xá chữ Khí.
Chữ KHÍ là nguồn cội của pháp đã biến sanh vạn vật. Phật là trước, tới Pháp là thứ, kế Tăng là tiếp theo. Cái Xá ấy là kính Đệ Tam qui. Trong Pháp ấy xuất hiện Phật-Mẫu kế tới Vạn-linh. Vì cớ cho nên Diêu-Trì-Cung và Hiệp-Thiên-Đài có tình mật thiết cùng nhau về mặt căn cội Pháp để vận hành nguơn Khí tạo Vạn linh thì vị Hộ pháp do Di-Đà xuất hiện, rồi kế vị Hộ-Pháp và kế tiếp Long Thần Hộ-Pháp cùng toàn bộ Pháp-giới đương điều khiển Càn Khôn vũ trụ cũng đều do nơi CHỮ KHÍ  mà sanh sanh hóa hóa.
Chào CHỮ KHÍ tức là chào cả Tam qui thường bộ pháp giới tức là chào mạng sanh của chúng ta, chớ chẳng phải chào HỘ-PHÁP Thập Nhị Thời quân, Thập nhị Địa chi đã xuất hiện mà đang thi-hành sứ mạng nơi Hiệp Thiên-Đài, mà chào toàn thể Vạn linh đã sanh hóa từ tạo thiên lập địa”.

Hạnh Đường                                                                                       [1]  [2]  [3]  [4]