Mùa Hội-Yến Diêu-Trì-Cung, Thu Đinh-Hợi, vào tháng
9 năm 2007
Thay
Lời Tực.
Những tài liệu trong tập sách này đều trích từ
Thánh Ngôn và Tủ sách Đại-Đạo để thân gởi đến Bạn đọc.
Xin dẫn Lời Tựa của Thánh-Ngôn Hiệp Tuyển:
"Cuối Hạ Nguơn nầy, nhơn loại phần nhiều
dụng hết trí não xu hướng vào lối văn-minh vật-chất; món ăn đủ sơn trân hải
vị; chỗ ở lại nguy nga đài các:
y phục tiện dùng gấm nhiễu che thân, ra một tấc
đường thì có ngựa xe đỡ gót. Các
lạc thú hiện thời trên cõi tạm nầy làm cho con người mê mẩn; rồi đua chen
nhau tranh giành phúc lộc; lăng-xăng xạo-xự trên chốn võ-đài; mạnh đặng, yếu thua khôn còn, dại mất.
Phần đông bực thông minh, lại đem trí khôn làm món binh khí hại người; kẻ tước trọng
lại dùng thế quyền mà đè ép dân đen ra bạc trắng. Quanh năm chỉ lo xác thân
hưởng điều khoái lạc, vợ ấm con no, được ngày nào vui ngày ấy; cho kiếp chết là
kiếp mất; gọi Thiên-đường, Ðịa ngục là câu chuyện hoang-đàng. Bậu bạn lỗi câu
tín-nghĩa, vợ chồng quên đạo tào-khương; mảng vụ chữ kim thời mà phong dời tục
đổi. Than ôi! Lượn sóng văn-minh tràn dập tới đâu thì nền luân-lý ngửa nghiêng
tới đó.
Nếu Ðạo Trời không sớm mở
lần ba, nền phong hóa, mối cang-thường, sau vì đó mà hư hoại.
Ðức Ngọc-Hoàng Thượng-Ðế
vì đức háo sanh, không nỡ ngồi xem nhơn-sanh sa vào nơi tội lỗi nên dụng
Huyền-diệu Tiên-thiên giáng cơ giáo Ðạo; hơn một năm trường tô vẽ biết bao lời
châu tiếng ngọc. E dụng văn từ cao xa người thường không rõ lý, rồi ra dạy cũng
như không, nên Ðấng Chí-Tôn tiện dùng Quốc-âm cho dễ hiểu.
Chư Ðạo-Hữu nhập-môn sau
thời kỳ ngưng Cơ Bút.
không hữu hạnh mà nghe đến
lời vàng tiếng ngọc của Ðức Ðại Từ-Bi. Nay Hội-Thánh trích lục những Thánh-Ngôn
giáng cơ dạy Ðạo, in làm hai bổn để truyền bá cho mọi người thông hiểu.
Thiết tưởng, trong
Ðạo-Hữu, dầu xưa dầu mới, ai có Ðạo-tâm mà không tiếp được Thánh-Ngôn nầy lại
không hết dạ hoan nghinh?
Vậy xin chư Ðạo-Hữu, chư
Thiện-Nam, Tín-Nữ, hết lòng trân-trọng, vì là lời châu ngọc của Phật-Trời. Cơn
nhàn rảnh, nên lưu tâm đọc đến, trước là rõ thông mối Ðạo nhiệm mầu sau để trau
giồi đức hạnh của mình.
Nhà nào có Thánh-Ngôn là
nhà đó treo được ngọn đèn Thiêng-liêng tỏ rạng vậy.
Tòa-Thánh Tây-ninh
Hai mươi mốt tháng mười
năm Ðinh-Mão.
Hội Thánh Cẩn Từ
Lời của Soạn giả:
Xin lỗi độc giả: qua hai đề tài trước đây chưa phổ
biến, cũng là “Đại Đạo Nhập môn” là để biếu tặng cho hai người Bạn: Kỹ-niệm Bạn
Đạo mới nhập Môn ngày 01-09-Thu Đinh Hợi (Dl: 11-10-2007). Người này đã theo
Tin lành nay qua Đạo Cao-Đài. Viết ngắn gọn cho có tài liệu để về Mỹ-quốc.
Nay Soạn giả xin hoàn
chỉnh để kính biếu cho đồng Đạo bốn phương.
Chương I
Nghi-thức Đại-Đạo
1 - Lời Minh thệ
2 - Lạy là
gì?
3 - Thiên bàn tại tư
gia
4 - Cúng Tứ thời
Bài I - Lời Minh thệ.
Lễ Nhập môn.
Hồi lúc mới khai Đạo,
Thầy dạy: Các Môn Đệ đi từ người đến trước bàn Ngũ Lôi mà thề:
1 - Lời Minh thệ:
Tên gì? Họ gì? “Thề
rằng: Từ đây biết một Đạo Cao Đài Ngọc Đế, chẳng đổi dạ đổi lòng, hiệp đồng chư
Môn-Đệ gìn luật lệ Cao Đài, như sau có lòng hai thì Thiên tru địa lục” (36 chữ)
Lập Minh Thệ tức là làm
Lễ Nhập môn.
Hai chữ “Nhập môn” chính
nghĩa là vào cửa. (Nhập là vào, môn là
cửa).Vào cửa Đại-Đạo Tam-kỳ Phổ-Độ vậy.
Muốn làm Môn-đệ của Đấng
Cao-Đài trước nhứt phải làm Lễ Nhập-môn. Tại sao sự tu-hành mà còn phải bắt
buộc quá vậy?
Lời Thuyết Đạo của Đức
Hộ-Pháp có giải rành:
“Buổi Chí-Tôn đến tạo
Quốc-Đạo cho nòi giống Rồng Tiên này, chính Ngài cầm Cơ đi đến các Tỉnh, kêu từ
nhà, gọi từ đứa con, cho không biết bao nhiêu bài khuyến dạy, tạo thành
Tôn-giáo CAO ĐÀI là QUỐC ĐẠO. Tưởng chưa có người nào đem cả tinh
thần, tâm đức mà thi ân cho ai dường ấy. Đức Chí-Tôn đến độ rỗi, lập giáo rồi
lại bắt Minh thệ.
Hỏi tại sao Ngài lại bắt
Minh thệ, buộc con cái phải hiệp đồng cùng nhau, mỗi người có một
chút Đức-tin. Thầy bảo qui Đức-tin ấy lại, phải có tâm đức, tin tưởng, yêu ái
lẫn nhau, phải nhìn nhận có Thầy, có Đức-tin nơi Thầy” (TĐII/42)
2 - Minh thệ là gì?
Chính là nói tắt của
thành-ngữ “Minh sơn thệ hải” tức là lời hẹn với núi, thề với biển hay còn
nói là thề non hẹn biển. Là sự thề thốt đinh-ninh không dám sai lời. Nếu chỉ
chính bản thân mình ước hứa e rằng có thể quên đi nên phải nhờ những chứng nhân
khác làm chứng cho lời nguyện, lời hứa của mình.
Ca dao Việt-Nam rằng:
"Để lời thệ hải minh sơn,
Làm con trước phải đền
ơn sinh thành."
Ở đây lời thề của người
Tín hữu Cao-Đài trước khi được nhận làm Môn-Đệ của Đấng Chí-Tôn (Ông Thầy Trời)
tức nhiên vào cửa Đạo phải có lời tuyên hứa nguyện trung thành với Đạo-pháp,
gọi là lời Minh thệ.
Sở dĩ phải có lời Minh
thệ là vì tâm lý của nhơn sanh hay thay đổi nên quyền Chí-Tôn phải buộc, cũng
vì ích lợi của chúng sanh. Muốn được làm Môn-đệ phải:
1 - Xét mình cho kỹ
trước khi vào Đạo.
2 - Khi vào Đạo rồi phải
đủ Đức tin và Chí-thành.
3 - Nâng mình vào đường
lối cao-thượng.
Phải cao thượng hơn chốn
trần gian hèn kém và đau khổ này. Sau cùng phải tu làm sao để đạt được ngôi
Thần Thánh- Tiên- Phật và cả ngôi Trời nữa, mà Đức Thượng Đế sẵn-sàng giao cho
người có tâm đức, nhơn nghĩa…
3 - Ý- nghĩa lời
Minh thệ:
(Thông tri số 104/ CTĐ
ngày 27-01-Tân Mão (dl: 04-03-1951 ) của Hội-Thánh
Cửu-Trùng-Đài do Lại viện ban hành số 171/ SL ngày 06-05-Canh Tuất (dl: 09-06-1970 )
Ý-nghĩa lời Minh thệ
trên đây là một lời tuân hứa nhứt quyết theo cùng Đấng Thượng-Đế, để trọn tâm
thi hành Thiên-Đạo và cam kết làm tròn phận sự theo lời Minh thệ.
- Điều thứ nhứt: “Thề rằng: Từ đây biết
một Đạo Cao-Đài Ngọc Đế, chẳng đổi dạ đổi lòng” Là trọn nhìn một Đạo Cao-Đài
của Đức Chí-Tôn, ngoài ra không đặng xu-hướng theo ngoại giáo, gây nên sự rắc
rối chia ly và làm mất Đức-tin nơi cửa Đạo.
- Điều thứ nhì: Hiệp đồng chư Môn-đệ gìn
luật lệ Cao Đài. Tín-đồ nhập môn rồi phải tuân hành y Luật pháp chơn
truyền của Đại-Đạo là: Tân luật, Đạo Luật, Pháp Chánh-Truyền…và thi-hành các
qui điều giáo huấn của Hội-Thánh để làm tròn phận sự mình. Ấy là phương hiệp
đồng nhứt trí của toàn Đạo: Tín đồ, Chức việc, Chức sắc, Hội-Thánh để
nhặc gìn luật lệ Cao-Đài của Đấng Chí-Tôn.
- Điều thứ ba: như sau có lòng hai thì
Thiên tru địa lục”. Ăn ở hai lòng bất trung, bất chánh, dối Thầy phản bạn
và làm những việc trái với luật lệ của Đại-Đạo cùng hành động vô nhân, vô
nghĩa, mất sự thương yêu, mất điều tín nhiệm, gieo rắc những điều ngờ vực, hiềm
khích giữa tình đồng Đạo và manh tâm bội nghịch cùng Hội Thánh sẽ chịu luật
công bình của trời đất tru diệt. (nghĩa là trời giết đất giết).
* Minh thệ đối với Luật
vô vi:
Là Thiên điều của Chí
Tôn cùng các Đấng thiêng liêng: Phật, Tiên, Thánh, Thần cầm quyền
trị thế. Là một ân huệ được chọn làm Môn-đệ của Đấng Chí-Tôn. Khi giữ trọn lời
Minh thệ sẽ được các Đấng hộ trì, ban ân lành, đạo tâm sáng suốt, trọn vẹn đức
tin, đến ngày thành công đắc Đạo được ghi tên vào Tiên-tịch.
* Minh thệ đối với Luật
hữu hình Hội-Thánh:
Là một giá trị uy-tín
đối với Đạo và Hội-Thánh. Khi giữ trọn lời Minh thệ sẽ được tín nhiệm, kính nễ,
bảo trợ, hưởng mọi đặc ân với Luật công bằng Hội-Thánh.
Lời Minh thệ Nhập môn
cầu Đạo là một điều rất
quan hệ của người giữ
Đạo và một lời hứa trọn vẹn tín thành với Hội-Thánh cùng các Đấng Thiêng-liêng
một kiếp sanh hiện tại và tương lai, phước hay tội cũng do nơi lời Minh thệ
này.
Vậy toàn Đạo Nam Nữ nên
thận trọng tuân y theo lời Minh thệ. Chức sắc hữu quyền: các cơ quan, chư vị
Khâm châu, Đầu tộc Nam Nữ phải thông truyền lời dẫn giải Minh thệ này cho toàn
Đạo tuân hành”.
4 - Thông tri của Ngọc
Chánh Phối-sư:
Tiếp theo đây là
Thông-tri của Ngọc Chánh-Phối sư đề ngày 22-11-Bính Ngọ (dl: 02- 01-1967 ):
“Hội Thánh xin nhắc nhở
chư Chức-sắc, Chức-việc cầm quyền Hành-Chánh-Đạo ở trung-ương cũng như địa
phương nên nhớ lời Minh thệ trước bửu pháp Ngũ-lôi và các Đấng Thần,
Thánh, Tiên, Phật cầm quyền trị thế và làm tròn Thiên Đạo mà dìu-dắt đoàn em
đều là con cái của Đức Chí-Tôn tận con đường Thánh-Đức trong khuôn viên
Luật pháp chơn truyền của nền Đại-Đạo.
“Lời Minh thệ đối với vô
vi là Luật Thiên-điều rất quan hệ cho Chức-sắc Thiên-phong, Chức Việc,
Bàn-trị-sự cũng như lời Minh thệ của người mới Nhập môn cầu Đạo là lời hứa trọn
vẹn tín thành cùng các Đấng Thiêng-liêng và Hội-Thánh “không đổi dạ đổi lòng”.
Nếu giữ tròn lời Minh thệ cho đến ngày thành công đắc Đạo được ghi tên
vào Tiên-tịch, nhược bằng trái lại thất thệ vì “lòng một dạ hai” thì rất
uổng một kiếp sanh may duyên gặp Đạo”.
5 - Tính cách quan trọng
của lời Minh thệ:
Vì tầm mức quan trọng
của lời Minh thệ dường ấy nên Hội Thánh lúc nào cũng ân-cần nhắc nhở.
Đến khi lâm chung bài
Kinh cầu hồn khi hấp-hối có câu này và chính đây là sự quyết-định do lời
Minh-thệ:
Ớ! Tên họ …Thành tâm cầu
nguyện,
Nguyện Chí-Tôn linh hiển
độ sanh.
Ăn-năn sám hối tội tình,
Xét câu Minh Thệ gởi
mình cõi thăng.
Lời Thầy cũng dạy bảo
trong buổi khai Đạo rằng:
“Chư Môn-đệ đã lập Minh
Thệ rồi, ngày sau tùy Âm chất mỗi đứa mà thăng, hay là tội lỗi mà giáng, song
buộc mỗi đứa phải độ cho đặng ít nữa mười hai người”. (TN II / 12)
Bởi Cao-Đài Đại-Đạo ngày
nay Đức Chí-Tôn có dạy rõ: trên có Tam Thập lục Thiên (36 từng trời), dưới có
Tam Thập Lục động (36 cõi đất) đó là tượng trưng hai cảnh đọa thăng của con
người. Vì vậy mà lời Minh thệ có 36 chữ. Điều ấy chứng tỏ rằng ai giữ đúng chơn
truyền của Đại-Đạo thì đường Tiên thong-thả:
Ba mươi sáu cõi
Thiên-tào,
Nhập trong Bát-Quái mới
vào Ngọc-Hư.
Còn nếu người nào thất
thệ với Đức Chí-Tôn thì Tam thập Lục Động lại mời.
Đức Hộ-Pháp cũng nói:
“Về phần Môn-Đệ của Đức
Chí-Tôn từ buổi đem thân vào cửa Đạo, trong lúc Nhập môn đã quì trước Bửu điện
có Bàn Ngũ-Lôi mà lập Minh thệ. Vậy mà:
Than ôi! Cho những người
thề như vậy mà cũng không để trọn Đức tin nơi Đức Chí-Tôn lại thối bước ngã
lòng, cởi áo Đạo dẹp khăn tu, mong mỏi xu-hướng theo con đường tục lụy, cho nên
mới gây ra con đường lằn súng mũi đạn ngày nay.
Vậy thì ai là người
thất thệ với Chí-Tôn thì phải sớm thức tỉnh tâm hồn, ăn-năn sám hối
cầu xin Đại-Từ Phụ cùng các Đấng Thiêng-Liêng Từ bi ân xá tội-lỗi tiền khiên
thì họa may đặng chung hưởng ân huệ của Chí-Tôn
ban cho sau này” (ĐHP: 15-9
Bính-Tuất 1946)
Vậy nên phải Xét mình
trước khi vào Đạo để chính mình nhận định cho kỹ, hầu tạo cho được Đức tin và
sự chí thành. Kinh có dạy:“Đạo gốc bởi lòng thành tín hiệp”.
Khi vào Đạo rồi tự mình
nâng cao phẩm giá mình vào lối cao thượng. Cao thượng hơn người thường nhơn còn
nhiều hèn kém và lao khổ này.
6 - Đạo mở tức là Cơ
Đại-Ân-xá của Đức Chí-Tôn:
Ngài Bảo-Đạo Hồ-Tấn-Khoa
có nói:
“Người mới Nhập môn vào
Đạo Cao-Đài lập Minh thệ thì đặng hưởng hồng-ân là thọ phép Giải oan. Phép này
rửa sạch tội tiền khiên của mình từ trước.
Phép này cũng là một Đại
Ân xá những tội tình, nhưng từ ngày Nhập môn về sau thì phải gìn giữ đừng gây
thêm tội mới cho đến ngày chết tức là ngày trở về với Đức Chí-Tôn (Đại-Từ-Phụ)
thì được nhẹ nhàng rất nhiều rồi.
Ngoài Bí-Pháp
Giải-oan này Đức Chí-Tôn còn ban cho Pháp Tắm Thánh, pháp làm Hôn phối và
đặc biệt nhứt là Phép xác và Phép độ thăng.
Người Tín-hữu Cao-Đài
nào giữ được 10 ngày chay trong mỗi tháng đổ lên được thọ truyền bửu pháp tức
là hưởng được Phép xác, cắt hết 7 dây oan-nghiệt. Linh hồn không còn bị ràng
buộc với thi hài bởi 7 dây oan nghiệt nữa, nên được xuất ra nhẹ-nhàng về cõi
Thiêng liêng Hằng sống.
Còn Phép độ thăng là để giúp cho
linh hồn những Chức-sắc được nhập vào Bát-Quái-Đài dễ-dàng hơn”
Bài 2 - Lạy là
gì?
Bất cứ một Tôn-giáo nào:
dù là Đạo thờ cúng Ông bà cũng vậy, dân-tộc Á-Đông này coi sự Lễ bái là đứng
hàng đầu trong các nghi thức.
- Lễ bái để tỏ lòng trân trọng với một Đấng sinh thành đã
cho ta một cái thân sanh là công của cha mẹ.
- Để tỏ lòng ngưỡng mộ với bậc siêu phàm như người có
công dựng nước và giữ nước. Tạo Đạo cứu Đời.
- Để tỏ lòng ngưỡng vọng với một Đấng tối thượng mà chính
nhân-loại phải hết lòng bái phục là Trời.
Chung qui sự lễ bái là để phát khởi Đạo tâm. Có câu “Lễ
bái thường hành tâm Đạo khởi”.
Nay, buổi Tam-Kỳ Phổ-Độ Đức Chí-Tôn giáng dạy những
nghi-thức về việc bái lạy ấy, Thánh-ngôn dạy về:
- Bái lễ:
“Khi bái lễ, hai tay con chắp lại, song phải để tay trái ấn
TÝ, tay mặt ngửa ra nằm dưới, tay trái để lên trên".
Lạy là gì?
- Là tỏ ra
bề ngoài, lễ kỉnh trong lòng.
Chắp hai tay lại là tại sao?
- Tả là Nhựt, hữu là Nguyệt, vị chi Âm-Dương; Âm Dương hiệp
nhứt phát khởi Càn-Khôn, sanh sanh hóa hóa. Tức là Ðạo.
Lạy kẻ sống thì hai lạy là tại sao?
- Là nguồn cội của nhơn-sanh lưỡng hiệp Âm Dương mà ra. Ấy
là Ðạo.
Vong phàm bốn lạy là tại sao?
- Là vì hai lạy là của phần người, còn một lạy Thiên, một
lạy Ðịa.
Lạy Thần lạy Thánh thì ba lạy là tại sao?
- Là lạy Đấng vào hàng thứ ba của Trời và cũng chỉ rằng lạy
Tinh-Khí-Thần hiệp nhứt. Ấy là Ðạo.
Lạy Tiên lạy Phật thì chín lạy là
tại sao?
- Là lạy chín Ðấng Cửu-Thiên khai hóa.
Còn lạy Thầy mười hai lạy là tại
sao?
Các con không biết đâu ?
-Thập nhị Khai-Thiên là
Thầy, Chúa cả Càn-Khôn Thế Giái; nắm trọn Thập nhị Thời-Thần vào tay; số mười
hai là số riêng của Thầy” (Thánh-ngôn I/11)
Giải-thích Cách Lạy và
bắt Ấn Tý
1 - Cách lạy:
Đưa tay đã bắt Ấn
kiết-quả lên trán, rồi để xuống ngực mới xá. Khi lạy xòe bàn tay ra mà úp xuống
đất, ngón tay cái của bàn tay mặt đặt lên ngón cái của bàn tay trái. Tức là
Lưỡng-nghi sinh Tứ tượng, tức nhiên là 4, cộng với 8 ngón còn lại là 12. Hai số
này hiệp lại là 12 (4+8) Tượng cho Thập Nhị Địa chi .
Riêng hai bàn tay có cả
thảy 10 ngón tức là thập Thiên can.
Thập thiên can phối hợp
với Thập nhị Địa chi thành ra một cặp Âm Dương làm nên vũ-trụ càn khôn thế giới
này. Kinh Phật-Mẫu có dạy:
“Thập Thiên Can bao hàm
vạn tượng,
“Tùng Địa Chi hóa trưởng
Càn Khôn”
Mười Thiên can là: Giáp,
Ất, Bính, Ðinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quí, hiệp với 12 Địa chi là: Tý, Sửu,
Dần, Mẹo, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi, biến hóa ra hình tướng bao
la Càn khôn thế giới, làm cho thế giới rộng lớn thêm lên.
Đó là Bát-Quái biến hóa
vô cùng mới thành ra Càn Khôn thế giới.
2 . Giải nghĩa lạy chắp
tay:
Lạy chắp tay theo ba kỳ
mở Đạo, Tam Giáo:
1/ - Nhứt kỳ Phổ-Độ: Đức Thái Thượng
Lão Quân giáng thế dạy Đạo Tiên, phải chắp hai tay kiết nhị, như bông sen búp.
Khi lạy thì xoè hai tay úp xuống đất, cúi đầu xuống ba lạy kêu là khể
thủ.
2/ - Nhị kỳ
Phổ-Độ: Đức Thích Ca giáng sanh dạy Đạo Phật, thì chắp tay hiệp chưởng hoa khai. Khi
lạy thì ngửa hai bàn tay để xuống đất mà cúi đầu xuống, kêu là hòa
nam.
Khi Đức Khổng Tử giáng
sanh dạy Đạo Thánh, cách lạy là cung tay đến mày mà lạy kêu là phủ
phục.
3/ - Tam-Kỳ Phổ-Độ:
Nay Đấng Chí Tôn giáng
cơ tiếp điển mở Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ. Hiệp đủ Phật, Tiên, Thánh, là thời-kỳ
kiết quả độ đủ chín mươi hai ức nguyên nhân về nơi nguyên thủy. Có câu: “Thiên
Địa tuần hoàn châu nhi phục thỉ Tam Giáo qui nguyên” chắp tay hoa sen
đã thành trái.
Buổi Tam-kỳ Phổ-Độ:
trước khi lạy phải bắt Ấn Tý, gọi là Kiết quả, nghĩa là thời-kỳ này đã thành
trái. Tu thì thành, dữ thì đọa. Thưởng phạt phân minh.
Mỗi bàn tay có 5 ngón:
- Ngón cái gọi là mẫu chỉ (ngón mẹ của
các ngón)
- Ngón trỏ gọi là thực chỉ (chỉ đúng sự
thực)
- Ngón giữa gọi là trung chỉ (ngón ở
chính giữa)
- Ngón áp út là Vô danh chỉ (ngón tay
không tên)
- Ngón út gọi là Tiểu chỉ (ngón tay nhỏ
nhứt)
Bàn tay trái thuộc Dương, bàn tay hữu thuộc Âm.
Đây là ấn của Chí-Tôn. Khởi đầu dùng ngón cái của bàn tay
trái ấn lên góc ngón vô danh của bàn tay này, xong nắm lại, đó gọi là Ấn
Tý (bấm vào cung Tý) như một trái cây đã thành hạt. Đoạn bàn tay phải đỡ bàn
tay trái ôm tròn lại và đầu ngón cái của bàn tay phải bấm vào cung Dần của bàn
tay trái, như hình một trái cây đầy đặn.
Nay qua hội Nhơn sanh ư Dần, tức là qua Tam-Kỳ Phổ-Độ- Kiết
quả - là nguơn hội mà Chí-Tôn đến mở một nền Đại-Đạo, độ hết cả quần linh về
cõi Niết-bàn, chẳng để cho một điểm chơn-linh nào ở nơi Đông-Độ.
Khi ngón tay cái của bàn tay trái ấn vào cung Tý, còn lại
bốn ngón của bàn tay trái này là Tứ Dương, ngón tay cái của
bàn tay mặt bấm vào tay tả ở cung Dần, bốn ngón bao ngoài là Tứ Âm, hiệp
chung nhau lại là Bát quái tức là tám ngón tay biểu thị cho Bát-phẩm Chơn hồn.
- Tức nhiên bốn ngón thuộc Âm là: Vật chất hồn,
Thảo-mộc-hồn, Thú cầm-hồn, Nhơn hồn.
- Bốn ngón thuộc Dương là chỉ về Thần-hồn, Thánh
hồn, Tiên-hồn, Phật hồn.
Ấy là buổi Tam-Kỳ Phổ-Độ này Đức Chí Tôn độ hết nhơn vật quần
linh tận qui nguyên vị. Cộng chung hai lần 4 ngón tay trên lại tức là Tứ
tượng biến Bát-quái. Bát quái biến hóa vô cùng mới thành ra Càn khôn thế giái.
Tay trái (Dương) mà có ngón tay cái ở trong; đồng thời tay
trái lại có ngón tay cái của bàn mặt là Âm chỉ vào, đó là trong Âm có Dương,
trong Dương có Âm. Âm Dương luôn hòa quyện nhau không bao giờ xa lìa. Một Âm
một Dương gọi là Đạo “nhứt Âm nhứt Dương chi vị Đạo”. Âm Dương hiệp
nhứt mới phát khởi Càn Khôn.
Sách có câu: “Vô danh Thiên Địa chi thủy” là trước
khi Trời Đất chưa khai, thì một khí không không, sau định hội Tý mới mở Trời,
nên chữ Tý ở tại góc ngón tay vô danh. Khi mở Trời rồi mới có hữu danh
vạn vật chi mẫu. Muôn vật có hình chất đều thọ nơi mẫu mới hóa sanh.
Như cách lạy nầy là thời kỳ dạy Đạo, còn người luyện Đạo
cách lạy cũng hai tay kiết quả, nhưng mà khi lạy chí đất phải để hai bàn tay
ngửa mới cúi đầu. Cách lạy mầu nhiệm, nghĩa lý sâu xa, chưa đến kỳ Tịnh Thất
nên không dám giải diệu mầu, e lậu Thiên cơ chẳng dễ”. (Lời dạy của Đức Quyền Giáo-Tông)
Đức Chí-Tôn lập Đạo trong buổi Hạ-nguơn này thể hiện cơ
tuần-huờn châu nhi phục thủy, Tôn-chỉ lấy Tam Giáo Qui Nguyên Ngũ Chi Phục Nhứt
để đưa nhân-loại đến Đại-Đồng. Lấy theo nguyên-lý của vũ-trụ thì:
- Thiên khai ư Tý, trời khai vào hội Tý
- Địa tịch ư Sửu,
đất thành hình ở hội Sửu
- Nhơn sanh ư Dần, có nhơn-loại vào hội Dần.
Nay là buổi “Nhơn sanh ư Dần” nên đây là phần hành của Đức
Di-Lạc. Do vậy mà hình ảnh của Ngài ngự ở mặt tiền Đền-thánh, cỡi cọp để làm
biểu tượng là năm Dần
* Thiên khai ư Tý: Vì
trước khi trời đất chưa khai thì chỉ là một khí không không
mờ mịt. Sau khi định hội Tý mới mở trời, nên chữ Tý đặt ở ngón vô danh (ngón
tay không tên, gần bên ngón út, nên gọi là áp út). Có câu “Vô danh
Thiên địa chi thủy” 無名天地之始 (không
tên là trước khi
có trời đất)
* Địa tịch ư Sửu: là
khi mở trời rồi, đất mới được thành hình, do khí nhẹ bay lên làm trời, khí nặng
lắng xuống thành đất. Cơ biến hóa này do Mẫu (mẹ) tượng trưng ngón tay cái trên
bàn tay gọi là Mẫu chỉ. Vạn-vật hữu hình trong trời đất này đều do Mẹ tạo
thành, có câu “Hữu danh vạn-vật chi mẫu” 有名萬物之母.
Đạo Cao-Đài xác nhận trong vũ-trụ bao la đều do Phật-Mẫu
điều hành, Phật-Mẫu nắm cơ hữu tướng. Chí Tôn nắm phần vô tướng.
* Nhơn sanh ư Dần: Tức
là nay qua Hội Dần là thời kỳ của nhơn-loại, là người. Bây giờ đủ cả “Cha, Mẹ,
Con” Tam tài thống hiệp. Người đứng vào ngôi cùng với trời đất tức là
Thiên-Địa-Nhân.
Đạo-pháp đã đúng hội Tam-Kỳ kiết quả. Cao-Đài xuất thế là
hiệp với Thiên thơ đã định:
“Tam kỳ khai hiệp Thiên
thi,
“Khoa môn Tiên vị ngộ kỳ
Phật duyên”.
Do vậy mà Ấn Tý của thời
kỳ thứ ba Đại-Đạo Tam Kỳ Phổ-Độ là thời kỳ Thiên Địa hoằng khai.
Đã qua ba thời kỳ mở
Đạo:
- Nhứt kỳ Phổ-độ là tượng bông sen
búp, nên hai bàn tay đưa thẳng ra đặt úp vào nhau.
- Nhị Kỳ Phổ-độ là tượng cái bông
tàn đi, để chuyển tiếp thành trái, hai bàn tay nắm lại với nhau.
- Tam kỳ Phổ-Độ này thật sự đã
thành hình, kết quả, có nghĩa là tu thì thành: Hiền thăng, dữ đọa. Nhưng khi
đạt kết quả rồi không phép hưởng riêng một mình, mà phải gieo trồng lại, tiếp tục
cho nhơn sanh hưởng nhờ, luân-lưu cho khắp cả Đại-Đồng thế giới cùng chung
hưởng mới gọi là Phổ-độ. Xem thế là chỉ hai bàn tay mà nắm cả Càn Khôn vũ trụ.
Kinh nói là “Ốc trần hoàn ư song thủ chi nội”
Chỉ-dẫn thêm (Lời dạy của Đức Quyền
Giáo-Tông)
Lạy Thầy ba lạy, mỗi lạy
4 gật, mỗi gật niệm: Nam Mô Cao Đài Tiên Ông Đại
Bồ Tát Ma Ha Tát.
Lạy Phật, lạy Tiên, lạy
Thánh 3 lạy, mỗi lạy 3 gật. Mỗi bài kinh đều có chỉ câu niệm rồi, không cần
nhắc lại (Xem câu niệm cuối mỗi bài Kinh)
Còn xá bàn Hộ Pháp là
tại Tòa Thánh và các Thánh Thất. Các nhà tư như có tuần tự, có vọng bàn Hộ Pháp
mới xá. Còn nơi nào không có bàn Hộ Pháp thì không buộc phải xá. Có nhiều khi
nhà tư, hoặc Lễ, Vía hiến các Đấng cũng xá, đó là sái phép.
Từ Đầu Sư đổ lên có qui
vị, hoặc tuần tự, thì lạy 3 lạy, mỗi lạy 3 gật, niệm danh hiệu và tước phẩm của
vị ấy.(2)
Từ Chánh Phối Sư đổ
xuống Lễ Sanh thì lạy 3 lạy, không có gật.
Từ Chánh Trị Sự đổ xuống
Tín đồ, lạy 4 lạy, là vì có thêm 2 lạy kỉnh Thiên và kỉnh Địa, nên mới có sự
phân biệt là:
Hai lạy đầu phải quì để
chỉ rõ rằng: kỉnh Thiên Địa;
Hai lạy sau thì đứng để
chỉ nghĩa lạy vong phàm cho phân biệt.
Còn lạy người sống thì 2
lạy.
Nên nhớ: lấy dấu Phật,
Pháp, Tăng duy chỉ có làm Lễ Đức Chí Tôn mà thôi. Còn Thần, Thánh, Tiên, Phật
thì không có lấy dấu chi hết.
(1) Khi nào có Nam Nữ
sắp hàng hai bên thì mới xá Đàn, còn ngoài ra thì không xá Đàn.
Phụ luc: Phần giảng dạy của Hội
Thánh Cửu Trùng Đài. Châu tri số 61 đề ngày 18 tháng 8 năm Mậu Dần (Dl
10-10-1938).
(2) Như lạy Đức Quyền
Giáo Tông, thì niệm Nam Mô Đức Quyền Giáo Tông
Thượng Trung Nhựt.
Lạy Bà Đầu Sư Lâm Hương
Thanh, thì niệm Nam Mô Đức Bà Đầu Sư Lâm
Hương Thanh.
4 - Tham khảo tài liệu
của Đức Quyền Giáo-Tông dạy từ buổi đầu
1/ . Cách lạy thường
cúng Tứ thời:
“Trước khi phải đánh ba
tiếng chuông rồi, thì sửa soạn khăn áo, đèn nhang cho đủ. Như có nhiều vị cúng
Đấng Từ Bi, thì phải vào Điện Thờ mà sắp bài ban, đứng cho ngay hàng hai bên.
Nghe ba tiếng chuông lần
thứ nhì, thì hai bên chắp tay kiết quả, đưa chí trán mình, xá xuống chí gối (1)
rồi hai bên đều khởi chơn phía trong điện mà bước vào chỗ quì, mỗi hàng ba vị.
Rồi ngước lên Điện, mới đưa tay kiết quả đến trán mình, xá đến gối ba xá, phổ
Thiên áp Địa gọi là Tam Tài, mới khởi chơn trái bước tới một chút, quì chơn mặt
xuống trước, chơn trái quì theo cho ngay thẳng cái mình, mắt thì ngó ngay Thiên
Nhãn:
- Đưa tay kiết quả lên
trán chính giữa mà lấy dấu, niệm: Nam Mô Phật
- Đưa qua bên tả gần lỗ
tai niệm: Nam Mô Pháp
- Đưa qua bên hữu gần lỗ
tai niệm: Nam Mô Tăng
Xong rồi mới để tay kiết
quả nơi ngực mình, chỗ trái tim, chớ rời ra.
- Cúi đầu lần thứ nhứt
niệm: Nam Mô Cao Đài Tiên Ông Đại
Bồ Tát Ma Ha Tát.
- Cúi đầu lần thứ nhì
niệm: Nam Mô Quan Thế Âm Bồ Tát
Ma Ha Tát.
- Cúi đầu lần thứ ba
niệm: Nam Mô Lý Đại Tiên Trưởng
kiêm Giáo Tông Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
- Cúi đầu lần thứ tư
niệm: Nam Mô Hiệp Thiên Đại Đế
Quan Thánh Đế Quân.
- Cúi đầu lần thứ năm
niệm: Nam Mô Chư Phật, Chư Tiên, Chư Thánh, Chư Thần.
Dứt rồi, đọc bài Niệm
Hương.
Dứt, lạy ba lạy. (Mỗi
lạy 4 gật là 12 lạy)
Khi lạy rồi, khi ngước
dậy thì đưa tay kiết quả lên trán rồi mới chắp xuống ngực. Khi mãn lễ cúng đứng
dậy, cũng đứng chơn trái trước, cũng xá ba xá như trước, mới day ra bàn Hộ Pháp
xá một xá, rút từ hàng đi thứ tự mà ra.
2/ - Khi lạy hai tay xòe
ra đặt úp xuống,
hai ngón tay cái gác
tréo nhau thành hình chữ thập, tạo thành con số 4. Ngón cái của bàn tay mặt đặt
trên ngón cái của bàn tay trái tức là Âm trên Dương, có nghĩa là Âm bao Dương,
vì Dương thì tán Âm thì tụ nên Âm phải giữ Dương, đó là ý nghĩa của Lưỡng nghi
sanh Tứ tượng.
Tóm lại: trong cách lạy buổi Tam-Kỳ Phổ Độ này là gồm đủ các con số chỉ về Lý Dịch rất cao siêu, mầu nhiệm: hiệp đủ Âm Dương, Tam Tài, Tứ Tượng, Bát Quái, Ngũ hành. Kinh dạy rằng:“Hỗn độn Tôn sư. Càn Khôn chủ tể. Qui thế giới ư nhứt khí chi trung. Ốc trần huờn ư song thủ chi nội”..
Bài 3 - Thiên bàn
tại tư gia
Đức Chí-Tôn đã đem đến cho nhân-loại một nền Chơn-Đạo và
dạy cách thức thờ cúng Thầy trên Thiên Bàn, phải có đủ 12 cúng phẩm.
Thử tìm hiểu ý-nghĩa về cách thức, cùng những cúng phẩm ấy
qua hai phương-diện:
- Ý-nghĩa thờ phượng.
- Lý Dịch trong Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ Tòa Thánh Tây ninh.
A - Ý nghĩa và cách sắp đặt trên Thiên Bàn:
Kinh Thiên-Đạo có dạy:
“Lập vị Thượng-Đế thì phải lựa nơi nào cho tinh khiết,
tốt hơn hết là giữa nhà. Lập tran thờ cho cao và treo màn cho khuất chỗ
thờ phượng”.
1 - Cách sắp đặt trên Thiên Bàn.
Theo như lời tựa dẫn giải, Hội-Thánh dạy người Đạo sắp đặt
trên Thiên Bàn thờ cúng Đức Chí-Tôn theo hình chữ Chủ 主 với 12 phẩm vật tượng-trưng cho Thập Nhị Khai Thiên là
Đức Chí-Tôn, Chúa Tể cả Càn Khôn Thế Giới, bởi số 12 là con số riêng của Thầy.
Thánh-ngôn có lời dạy rằng:
“Thập nhị Khai thiên là Thầy, Chúa cả Càn-khôn thế giới nắm
trọn Thập nhị thời Thần vào tay. Số 12 là số riêng của Thầy”.
Như vậy, Thiên-bàn tượng-trưng cho cả Càn-Khôn Thế-Giới do
Đức Chí-Tôn làm chủ. Ngài đến lập Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ, chính mình Ngài làm Giáo-Chủ
mà độ dẫn chúng sanh khỏi kiếp luân hồi quả báo, nên người Tín đồ Đạo Cao-Đài
chỉ lập bàn thờ, thờ Đức Cao-Đài là đủ, không còn phải lập bàn thờ riêng để thờ
Thần, Thánh, Tiên, Phật chi riêng lẻ, chỉ làm cho mất vẻ tôn nghiêm, mà thêm
rườm-rà. Lại nữa, đây là thể hiện tinh-thần Đại-Đồng của buổi nhân-loại được
một nền Đại-Đạo Qui Nguyên Tam-giáo Phục nhứt Ngũ chi.
Khi sắp đặt phẩm-vật trên Thiên-bàn phải cho thật
ngay-ngắn. Nếu sắp không ngay thì trật nét chữ. Trật một nét thì không
chánh-đáng, rất có hại cho Đức tin của người thờ cúng là không nghiêm-chỉnh và
mất đi ý-nghĩa gọi là thất pháp dần-dần làm sai lạc chơn-truyền của một nền
Chánh-giáo.
2 - Ý nghĩa các cúng phẩm:
Dưới đây là phần ý nghĩa của mỗi phẩm vật thờ cúng trên
Thiên Bàn:
Số 1 / - Thánh Tượng Thiên Nhãn Thầy:
Thánh Tượng Thiên Nhãn tượng trưng Đức Thượng Đế, là Đấng
Thánh-Hoàng trước Ngôi Thái Cực, với quyền-năng tối thượng của Ngài.
Tuy nhiên, về hình ảnh của Thánh-Tượng trải qua nhiều
thời-gian cũng có nhiều mẫu khác nhau, dù điểm chính-yếu vẫn là “CON MẮT
THẦY” như ảnh số 1 dưới đây cũng gọi là Tượng Ngũ-Chi, nhưng có dạng
như Thiên nhãn Thầy đặt trên Quả Càn-Khôn, giống nơi Bát-Quái-Đài ở Toà
Thánh Tây-Ninh.
Sau đó, thì nơi tư gia Thánh-Tượng thờ theo mẫu thứ hai
trong hình, cũng gọi là “Tượng Ngũ Chi” nhưng vẽ giản dị hơn, cũng có đủ Tam
Trấn, Tam-giáo và Ngũ chi Đại-Đạo.
Dù dưới hình thức nào cũng nói lên quyền Chúa Tể của
Càn-Khôn thế giới, theo như lời dạy:
“Thầy đã nói với các con rằng: Khi chưa có chi trong
càn-khôn Thế-Giới thì Khí Hư-Vô sanh ra có một Thầy và ngôi của Thầy là
Thái-Cực.
Thầy phân Thái-Cực ra Lưỡng-Nghi, Lưỡng-Nghi phân ra
Tứ-Tượng, Tứ-Tuợng biến Bát-Quái, Bát-quái biến-hóa vô cùng, mới lập ra
Càn-Khôn Thế-Giới. Thầy lại phân tánh Thầy mà sanh ra vạn-vật là: vật-chất,
thảo mộc, côn-trùng, thú-cầm, gọi là chúng-sanh.
Các con đủ hiểu rằng:
Chi-chi hữu-sanh cũng do bởi chơn-linh Thầy mà ra, hễ có
sống, ắt có Thầy. Thầy là Cha của sự-sống, vì vậy mà lòng háo-sanh của Thầy
không cùng tận.
Cái sống của cả chúng-sanh, Thầy phân-phát khắp Càn-Khôn
Thế-Giới, chẳng khác nào như một nhành hoa trong cội, nó phải đủ ngày giờ Thầy
nhứt định mới trổ bông và sanh trái đặng trồng nữa, biến hóa ra thêm; nếu như
ai bẻ hoa ấy nửa chừng thì là sát một kiếp sanh không cho biến-hóa.
Mỗi mạng sống đều hữu căn hữu kiếp, dầu nguyên sanh hay
hóa-sanh cũng vậy, đến thế nầy lâu mau đều định trước, nếu ai giết mạng sống,
đều chịu quả-báo không sai; biết đâu là cái kiếp sanh ấy chẳng phải là Tiên,
Phật bị đọa luân-hồi mà ra đến đỗi ấy.
Cái mạng sống là Thầy, mà giết Thầy thì không phải dễ, các
con gắng dạy nhơn-sanh điều ấy”. (TNII/62)
Số 2/ - Đèn Thái Cực còn gọi là Vô-cực-đăng:
Thánh Giáo có dạy:
“Thầy giải về Vô Cực Đăng”
Trước khi chưa phân Trời Đất, thì Khí Hư-vô bao quát
Càn-khôn, sáng soi đầy trong vũ-trụ. Nó là một cái trung-tâm-điểm, tức là Đạo.
Đạo ấy mới sanh ra Thái cực, hóa Lưỡng-nghi. Lưỡng-nghi là Âm Dương tức là động
và tịnh.
Có Âm Dương rồi mới có hóa sanh muôn vật.
Ngọn đèn thờ chính giữa, là giả mượn làm Tâm đăng, Phật
Tiên truyền Đạo cũng do đó, thành Đạo cũng tại đó. Đèn dầu đặt ngay chính giữa,
không lay động, xao xuyến, chiếu thấu khắp cả Càn-Khôn.
Mặt Nhựt, mặt Nguyệt có lúc sáng, lúc tối, giờ khắc nào
cũng tỏ rạng, không lu mờ. Nhơn vật nhờ đó mà sanh, nhờ đó mà thành, nhờ đó mà
an vui.
Trời Đất nhờ đó mà quang minh trường-cửu. Người tu-hành nhờ
đó mà tạo Tiên tác Phật, siêu phàm nhập Thánh. Hễ chinh qua bên trái thì Tả
Đạo; dịch qua bên hữu thì Bàn-môn, ngay ở giữa là Chánh Đạo. Đạo Cao Đài ngày
nay chỉ dùng hai chữ chánh và trung mà thôi.
Chúng-sanh phải nên am-tường lý ấy, lý ấy ở trong Tâm. Tâm an-tịnh vô-vi tự nhiên bất động là Chánh Đạo.
Tâm còn tính mưu thần chước quỉ, độc ác hiểm sâu, ấy là Bàn-môn, tả Đạo chớ chi
đâu!”
Ý - nghĩa Bông và Trái:
Số 3 và 4 - Trái cây và Bông: tức là 5 thứ hoa và 5 thứ trái hay là Ngũ hoa, Ngũ
quả. Hoa quả là tượng trưng cho bốn mùa, khí hậu ôn hòa, muôn loài sanh trưởng,
thảo mộc tươi nhuần, cành lá sum-xuê, đơm bông trổ trái, tức là Lưỡng Nghi sanh
Tứ Tượng, Tứ Tượng tạo nên chữ (+) Thập ấy Âm Dương gác lên nhau mới ló ra bốn
cánh mà gọi rằng “Tứ Tượng thành hình”. Bốn cánh ấy phân ra Đông, Tây, Nam,
Bắc.
Năm thứ Trái cây tượng
trưng cho Hậu Thiên Ngũ vị đối với Tiên Thiên Ngũ khí là năm cây hương hay ngũ
sắc là năm sắc hoa. Trái cây còn biểu hiện cho người tu hành được thành công
đắc quả (Kết trái).
Bình bông biểu-hiện
cho sự xanh tươi tốt đẹp, chỉ vềTINH là hình thể con người.Năm sắc là
tượng-trưng cho năm giống dân trên thế giới:Vàng, Trắng, Đỏ, Xanh, Đen.
Dâng hiến Bông, là
dâng hiến thể xác của chúng ta cho Đức Chí-Tôn tùy phương sử-dụng và cầu xin
Đức Chí-Tôn ban ân lành cho thể xác chúng ta được tươi tắn như hoa kia vậy.
Bởi thế, Đạo Cao-Đài không phân biệt màu da sắc tóc, coi
nhau là con chung của Đấng Thượng-Đế là anh em một nhà. Ngày nào năm sắc dân
trên quả địa-cầu nầy biết nhìn Đức Ngọc-Hoàng Thượng-Đế, Chúa Tể cả Càn-Khôn
vạn loại là Cha chung, đồng dâng hiến lễ lên Ngài, thì ngày ấy là ngày Đại-Đồng
huynh đệ, được hưởng thái bình thạnh-trị vậy.
Kinh dâng Hoa có câu:
“Năm sắc hoa tươi xin kỉnh lễ,
“Cúi mong Thượng Đế rưới
ân thiên”.
Ý - nghĩa Nước trà và
nước trắng:
Số 5 / - Nước trà (để bên hữu ấy là Âm).
Số 9/ - Nước trắng (để
bên tả ấy là Dương)
Dương là Trời, Âm là Đất.
Nước trắng: Để
bên tả, tượng trưng nước Dương.
Nước Dương là nguồn nước trên Trời mưa xuống, là sự sống
của Đức Chí-Tôn ban cho, để nuôi sống muôn loài vạn vật. Nguồn sống nầy có một
giới hạn, có khi thiếu hụt, lắm lúc lại tràn đầy, vì đến mùa trời mới mưa. Có
năm, trong giữa mùa mưa lại nắng hạn, cỏ cây vì đó phải chết đi một phần, cuộc
sống của con người bị đe dọa. Có những người làm lễ cầu mưa: “Lạy Trời
mưa xuống. Lấy nước tôi uống. Lấy ruộng tôi cày. Lấy đầy bát cơm. Lấy rơm đun
bếp” Có khi, lại mưa tràn ngập, người cũng như vật đều bị chết đuối!
Bấy giờ người dân lại cầu xin “Lạy Ông nắng lên, Cho trẻ nó chơi, cho già
bắt rận, cho tôi đi cày”. Đó chứng tỏ một niềm tin tưởng nơi Phật Trời,
thuận tùng thiên lý. Có câu “Thuận Thiên giả tồn, nghịch thiên giả
vong” là vậy. Nghĩa là người biết làm theo ý trời thì còn, trái lại
chống trời thì bị muôn vàn tai họa. Nhân-loại muốn hết tai ương hoạn-họa thì
duy chỉ có một điều là biết kỉnh Phật thờ Trời mà thôi.
Nước Dương thật là thanh bạch, ấy là nước dương, nên chén
nước trắng để bên tả gọi là Dương. (1)
Nước Dương là nước không có nấu, dù nước mưa hay nước giếng
chỉ lọc sạch để dâng cúng mà thôi. Trong các thứ nước chỉ có nước giếng là đầy
đủ tính Dương, nghĩa là không bị ảnh hưởng bởi những chất hòa tan, như rác rến,
cặn bã hôi thúi. Đức Chí Tôn mở Đạo nơi đất Tây Ninh này rất thích hợp đất đai
cũng là hạnh phúc cho nhân sanh buổi này: Vì chỉ dùng nước giếng thôi.
Nước trà: Để
bên hữu, ấy là Âm. Nước Âm là nguồn nước ở trong lòng đất và biển cả, sông
ngòi, rạch suối. Nguồn sống của đất do Phật Mẫu ban cho, một nguồn sống triền
miên vô tận. Người ở miền đất cao, thì đào đất sâu xuống làm giếng lấy nước
uống Người ở đất thấp đồng bằng, thì dùng nước biển, sông, suối, rạch, ngòi,
dầu mùa mưa hay nắng hạn. Người và vật cũng nhờ đó mà sống, nên chén nước trà
để bên hữu gọi là Âm (Nước nấu chín để trà vào gọi là nước trà).
Chén nước trà còn tượng trưng cho Thần, tức là Linh
hồn. Khi cúng rót nước đủ tám phân, tượng trưng cho “Bát hồn vận
chuyển” do Đức Diêu Trì Kim Mẫu dùng Âm quang biến tạo Chơn thần.
Tám phân của chén nước Dương là tượng cho Bát Quái của Đấng Chí-Tôn.
Người tu phải coi theo đó mà hành Bát Chánh Đạo Hiểu
lẽ của Âm Dương trời đất là Hòa, thì người tu cũng lấy sự hòa làm chánh yếu,
chứ không vì các con số bí-pháp trên lầm hiểu, mà nhiều khi làm mất hòa trong
lẽ Đạo. Đạo là hòa, là sự sống. Đây là con số biểu tượng chứ không nhứt thiết
phải đo cho chính xác.
Bởi thế, con người đặt nặng tình cảm đối với Đất hơn Trời.
Hầu hết con nít mới sanh ra, người ta lại đem nhao rún chôn xuống đất, nên sự
sống và tình cảm của người dính liền với đất. Vì thế nên người do tình cảm
thiêng liêng ấy mà không nỡ rời quê hương là nơi chôn nhao cắt rún của mình mà
đi nơi khác. Cũng như người đến trong cõi trần-ai này nhưng lúc nào cũng nhớ về
cõi xa-xăm kia mà luôn hướng đến việc tu-hành, tức nhiên sự tu-hành là tìm về
căn cội. Thường nói người có căn tu mới đắc thành là như thế.
Đức Chí Tôn có nói:
“Kẻ phàm dầu ly hương thuở ấu xuân đi nữa, lòng hằng hoài
vọng. Chí Thánh dầu bị đọa trần, lòng hỡi còn nhớ hoài nơi Tiên cảnh”.
Phật-Mẫu đến độ con cái của Ngài:
Qua Tam Kỳ Phổ Độ, Đức Chí Tôn giao cho Đức Phật Mẫu đến độ
dẫn các Chơn linh để trở về ngôi vị, cũng như các con theo Mẹ để về với Cha,
rồi Cha sẽ ân thưởng cho các con. Đó là hình ảnh đứa trẻ sơ sinh, nó chỉ nhờ bú
hai giọt sữa của Bà Mẹ mà nó được sống mạnh khỏe hồng hào. Vì đó, mà trẻ con
thương mẹ hơn cha, nên đứa bé ít theo cha hơn là theo mẹ. Nếu có theo cha là
trường hợp ít có. Bởi nhỏ thường gần gũi Mẹ để được bú mớm nâng niu.
Thánh Giáo Đức Phật Mẫu dạy:
Chưa ai vào đến cõi trần nầy,
Chẳng thọ lấy Chơn Thần tay Thiếp.
Sanh dưỡng đã biết bao căn kiếp,
Rồi dắt dìu cho hiệp với Cha.
Bằng cớ là hiện giờ, ai biết lo tu hành lập công bồi đức
thì Đức Chí Tôn phong cho tước phẩm ngôi vịquí báu.
Thế nên cúng hai chén nước Âm Dương, tức là cầu nguyện cho
Âm Dương hòa hiệp, hai nguồn sống được tương đồng, chúng sanh thọ hưởng sự sống
trong yên lành hạnh phúc.
* Khi dâng Trà, là
dâng hiến cả Chơn Thần cho Đức Chí Tôn tùy phương sử dụng và xin Đức Chí Tôn
ban ân lành cho Chơn Thần được tráng kiện.
Khi Cúng xong, chúng ta đặt trọn sự tín ngưỡng nơi quyền
năng Thiêng liêng tuyệt đối, thì thỉnh hai chén nước Âm Dương hòa chung mà cầu
nguyện, thì nước ấy sẽ là Cam-lồ-thủy dùng cho người có bịnh uống sẽ mạnh lành,
vì người ấy được hưởng một lượt với hai nguồn sống mãnh liệt là Âm Dương hiệp
nhứt.
Theo ý của Thánh Huấn số 1-NCPS/TH ngày 19 tháng 5 năm Canh
Tuất (Dl: 22-06-1970) của Hội Thánh Cửu Trùng Đài dạy: Chén nước trắng không
được nấu, nếu nấu sôi thì chết Dương, tuyệt cơ sanh hóa..
* Ý - nghĩa ba ly rượu:
Số 6-7-8 là Ba ly rượu:
Ba ly rượu tượng-trưng cho Khí, tức là Hư-vô chi-khí, do Đức Diêu Trì Kim-Mẫu
Chưởng quản.
Khí là cái Phách hay trí-não của con người chúng ta, cũng
là Chánh-khí trong người.
Ba ly rượu là tượng-trưng cho ba cõi: Hạ-giới, Trung-giới,
Thượng-giới. Ba cõi này dành cho các phẩm từ quỉ-nhơn, phàm-nhơn và Thần Thánh
Tiên Phật. Khi cúng rót rượu ba phân tượng-trưng cho ba bậc
tu-hành: Hạ-thừa, Trung-thừa, Thượng-thừa hay là ba bậc quỉ nhân, hóa-nhân và
nguyên-nhân. Ngày nay Cơ Đại ân xá của Chí-Tôn cho về cùng một lượt.
Kinh Phật-Mẫu có câu:
“Trùng huờn phục vị Thiên môn,
“Nguơn linh, Hóa chủng, Quỉ hồn nhứt thăng”
Khí là trí não
đứng trung-gian đặng liên-hiệp với Tinh và Thần, họp lại mới đủ Tam-bửu. Nên
khi dâng Tam-bửu thì chén nước trà để bên hữu (Tinh), chính giữa là ba ly rượu
(Khí) Bên tả là nước trắng (Thần), nên gọi là Tinh- Khí- Thần hiệp nhứt.
Thế nên buổi đầu tiên ba vị Tiên-Nương chính thức đến dạy
Đạo cho các vị: Cư, Tắc, Sang là Lục Nương, Thất Nương, Bát Nương chính
là các con số: 6, 7, 8 cũng đồng nghĩa là chữ Khí tượng
cho ba ly rượu ấy. Nhưng Thất Nương đến trước tiên là số giữa trong ba con số,
cũng là dụng chữ Chánh và trung đó vậy.
Thể pháp của Đạo Cao-Đài đã đủ cả Tam ngôi:
Về mặt Tôn-giáo:
“Là một cơ cấu hữu-vi thì cũng không ngoài luật ấy, nên
trước tiên cần có đủ chủ hướng là Tinh-thần ấy là Tín-ngưỡng, chủ
Tinh-thần là linh hồn của Đạo-giáo, mà linh hồn của Đạo Cao-Đài là Đức
Chí-Tôn chủ về cực Dương .
Một Tôn-giáo muốn sống bền vững và phát triển tốt đẹp thì
Tôn giáo ấy có đủ Tam-bửu:
TINH, KHÍ, THẦN.
- Về Thần: thì
khi lập Đạo Cao-Đài, Thần đã sẵn có do Đức Chí-Tôn làm chủ linh hồn của
Đạo-giáo.
- Về Khí thì
buổi phôi thai chưa mấy tựu thành nên Đức Chí-Tôn mượn hình thể Diêu-Trì-Cung
làm Khí.
- Về Tinh là
hình thể của Đạo Cao-Đài tức là ba chi PHÁP-ĐẠO- THẾ tượng trưng là: Hộ-Pháp,
Thượng Phẩm, Thượng-Sanh.
Tức nhiên Đức Chí-Tôn đã cho hiệp Tam bửu.
* Lư Hương và ý-nghĩa 5 cây hương:
Số 11 là Lư Hương: Lư
hương tượng trưng Càn Khôn vũ-trụ và sự sanh biến vô cùng, tức là Tứ Tượng biến
Bát-Quái, Bát-Quái biến-hoá vô-cùng mới tạo ra Càn khôn thế giái.
Ý - nghĩa 5 cây hương: Kinh Nhựt Tụng có dạy:
“Khi cúng Thầy phải đốt cho đủ 5 cây hương, cắm hàng trong
ba cây gọi là: Án Tam Tài; thêm hàng ngoài hai cây nữa gọi là Tượng Ngũ Khí”.
Đức Hộ-Pháp giải:
“Năm cây hương tượng Ngũ khí mà biến thành Ngũ-hành vận
chuyển cả càn khôn thế-giới tức là Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ.
“Mỗi chất đều có mỗi sắc, mỗi sắc đều có mỗi khí, mùi vị và
sanh quang của nó chúng ta không thể hưởng được, nghe được, nên khi làm
lễ đốt đủ năm cây nhang là đúng theo phép tín-ngưỡng là qui pháp lại, mọi
vật trong Ngũ khí dâng lễ cho Chí-Tôn chỉ có Người vui hưởng qui pháp ấy mà
thôi, cắt nghĩa rõ-rệt là NGŨ KHÍ đó vậy.
“Đúng hơn nữa là trong Bát hồn vận-chuyển được phải nhờ đến
Ngũ-khí cùng một ý-nghĩa “vạn vật đồng thinh niệm Chí-Tôn”.
* Cách cắm hương:
Khi đốt năm cây hương, xá ba xá, chúng ta phải:
- Cắm cây thứ nhứt ngay giữa bình hương, tượng trưng cho
Ngôi Thiên là Phật.
- Cắm cây thứ nhì vào bên trái của chúng ta, tượng trưng
cho Ngôi Địa hay là Pháp.
- Cắm cây thứ ba về bên phải của chúng ta, tượng trưng cho
Ngôi Nhơn hay là Tăng.
- Trở lại cắm cây thứ tư bên trái chúng ta gọi là Âm.
- Cắm cây thứ năm trở về bên phải của chúng ta gọi là Dương; ấy
là Âm Dương nhị Khí, hiệp với ba cây hàng trong mới gọi là tượng Ngũ Khí.
Bây giờ phân ra Ngũ Khí, chúng ta sẽ thấy:
Ba cây hàng trong:
- Cây ở giữa thuộc về Hỏa khí, tượng là Trời (Thiên).
- Cây ở bên trái ta thuộc về Thổ khí, tượng là Đất (Địa).
- Cây bên phải thuộc về Kim khí, tượng về Người
(Nhơn)
Hai cây hàng ngoài:
- Cây ở bìa bên trái ta thuộc về Thủy khí, tức là Âm.
- Cây ở bìa bên phải ta thuộc về Mộc khí, là Dương.
Sở dĩ người tu hành phải thắp hương nơi tôn nghiêm là tạo
sự dịu dàng, thơm-tho; gây một sự cảm ứng với các Đấng huyền linh, là Đạo; mà
trước nhất người phải định cái tâm là chỗ đứng của mình, con số 5 là con số chỉ
cái tâm đó vậy.
Người không làm lệch lẽ yêu-ái của trời đất đó là
biết đến mệnh, cho nên hai chữ số mệnh đi liền nhau.
Cắm hương hai hàng thẳng nhau hay đặt xen kẽ?
Nếu bình hương vuông tượng đất (Âm) thì nhang cắm xen kẽ,
xem như tạo thành vòng tròn ấy là Dương. Nếu bình hương tròn tượng Dương thì
cắm hương theo hình vuông tượng Âm. Ấy là Âm Dương hoà hiệp.
* Ý - nghĩa Hai cây đèn:
10 và 12: Hai cây đèn: Gọi
là Lưỡng Nghi Quang, tượng trưng cho Nhựt Nguyệt, Âm Dương soi sáng khắp cả Càn
Khôn Vũ Trụ, tức là Thái Cực sanh Lưỡng Nghi.
Hai cây đèn này cùng hiệp với Thái cực đăng ở trên sẽ đủ
vào con số 3 là chỉ một sự tròn đầy viên mãn. Tức là tạo nên một tam giác đều.
Ý-nghĩa một mà ba, mà ba cũng là một vây. Bởi đây là thời-kỳ cùng cuối của một
chu-kỳ. Tất cả đều được an bày do quyền năng của Đấng Chí-Tôn, đó là Mệnh.
Người nhìn vào các con Số đã sắp đặt để hiểu. Nên được gọi
là Số mệnh.
3 - Thiên-bàn thờ Chí-Tôn hiện đã sửa sai pháp:
Thầy đã dạy trên Thiên bàn thờ Chí-Tôn hình chữ CHỦ 主 tức là gồm 12 món cúng phẩm, đặt thành 3 hàng ngang
tạo thành hình quẻ Càn ☰ Càn vi thiên (Càn là trời) tức là chỉ ngôi Thượng Đế
Thái-cực Thánh-Hoàng vi chủ. (Xem lại trang 20)
Nhưng ngày nay cũng đặt 12 món cúng phẩm ấy nhưng sửa lại
để bông và trái xuống cấp dưới, nghĩa là làm mất đi một đường ngang, bấy giờ
còn lại là hình chữ THỔ 土(thổ là đất) thì trở thành quẻ Khôn ☷ khôn vi địa (địa là
đất) là thời Âm. Âm thạnh tất Dương suy. Đạo bị bế là vậy. Bởi hằng ngày Ta chỉ
lạy vào chữ “Thổ” mà thôi.
Nhìn lên Thiên bàn, một lỗi-lầm như trên ta thấy ra rất
nhỏ, hầu như không một ai chú-ý, nhưng chiều sâu rộng thật tai hại vô cùng, Đạo
bị thất pháp là do đó. Người tu không thành do đó. Người bảo thủ Chơn-truyền
cũng phải biết phân biệt bấy nhiêu đó.
Thầy dạy:
“Thiên Địa hữu Âm Dương, Dương thạnh tắc sanh, Âm thạnh tắc
tử. Cả Càn khôn thế giới nhờ Dương thạnh mới bền vững, cả chúng sanh sống bởi
Dương quang, ngày nào mà Dương-quang đã tuyệt, Âm-khí lẫy lừng, ấy là ngày Càn
Khôn thế giới sẽ chịu trong hắc ám, mà bị tiêu diệt…” (Pháp Chánh-truyền Nữ
phái)
4 - Thất pháp như thế nào?
Điều này Thầy có nói với Hộ-Pháp khi Ngài giao quyền cho
Hộ-pháp xuống thế mở Đạo.
Nhắc lại lời Đức Hộ-Pháp có thuật lại rằng:
“Bần-Đạo vâng lịnh Đức Chí Tôn xuống thế mở Đạo, thì Đức
Chí-Tôn mới hỏi rằng:
- Con phục lịnh xuống thế mở Đạo, con mở Bí-pháp
trước hay là mở Thể-pháp trước?
Bần-Đạo trả lời: - Xin mở Bí-pháp trước.
- Chí-Tôn nói:
- Nếu con mở Bí-pháp trước thì phải khổ đa!
Đang lúc đời cạnh-tranh tàn bạo, nếu mở Bí pháp trước, cả
sự bí-mật huyền-vi của Đạo, Đời thấy rõ xúm nhau tranh giành phá hoại thì mối
Đạo phải ra thế nào?
Vì thế nên mở Thể-pháp trước, dầu cho đời quá dữ có
tranh-giành phá hoại cơ thể hữu-vi hữu-hủy đi nữa thì cũng vô hại, xin
miễn mặt Bí pháp còn là Đạo còn.
* Bí-pháp là Hiệp-Thiên-đài giữ.
* Thể-pháp là Cửu-trùng-đài mở-mang bành trướng”
Ấy vậy người Tín hữu Cao-Đài phải nắm vững Thể-pháp của
Đại-Đạo để rõ thông về mặt Bí-pháp. Dầu cho mặt Thể-pháp có cải đổi đi nữa
nhưng người Tín hữu đã hiểu thông rồi cũng vô hại. Nhắc lại lời Thầy đã nói “dầu
cho đời quá dữ có tranh-giành phá hoại cơ thể hữu vi hữu-hủy đi nữa thì cũng vô
hại, xin miễn mặt Bí pháp còn là Đạo còn.”
Như vậy trách nhiệm của người Tín-hữu Cao-Đài là phải rõ
thông Thể pháp của Đạo mới mong am tường Bí pháp của thời Tam-Kỳ Phổ-Độ này.
B - Xá chữ KHÍ:
Tại sao khi cúng xong rồi phải quay ra ngoài Xá chữ Khí?
Khí là gì?
- Khí 氣 là
sự sống, đây là viết đủ nét. Bên trái có bộ mễ 米 Mễ là gạo. Tức nhiên người dùng gạo (hay các thứ ngũ
cốc) mà nấu lên cho bốc hơi, dùng vật dụng hứng lấy chất hơi ấy, nó sẽ ngưng đọng
lại mà thành một thứ rượu. Rượu là do Khí bốc hơi mà thành. Vì vậy Lễ cúng có
rượu tượng cho KHÍ.
1 - Tại sao Đạo Cao-Đài thờ CHỮ KHÍ?
Chữ Khí 氣 ở sau ngai Hộ-Pháp (Hiệp-Thiên-Đài
Đền Thánh Tòa-Thánh Tây-ninh). Riêng nơi các Thánh Thất thì
chữ KHÍ thờ nơi bàn Hộ-Pháp đều có chung một ý-nghĩa là KHÍ SANH QUANG
của Càn khôn vũ-trụ, vạn vật nhờ Khí sanh quang hiện tượng ra mặt thế để bảo
tồn cơ sanh hóa hay tấn hóa của toàn thể vạn loại tức là hữu sanh.
“Từ buổi trời đất biến sanh đã có cái khối Nhơn linh ấy là
Cha của chơn linh, Cha của nhất điểm linh quang. Làm sao chúng ta hiểu linh
quang ấy?
Vì ta xét từ trước: Đức Chí-Tôn dùng cái thanh khí ấy mà
tạo ra loài người với đất, do thanh khí ấy mà biến thành vạn-vật. Loài người
đến nay nhờ tiến hóa mà khôn ngoan cũng như vạn-vật, nhờ tấn hóa mà cũng được
toàn năng, toàn tri vậy.
Các nhà triết học luận bàn đã nhiều, nhưng xét ra cũng
không ai hiểu rõ nguyên-căn ấy.
Phật-giáo nói cái khối linh ấy phân tánh của mình ban bố ra
cả vạn-vật, khối linh ấy trước khi phân tánh gọi là BRAHMA là Phật, đến khi
phân tánh rồi thì Đấng thứ nhì là CIVA chủ về Pháp, Đức chí-linh cầm quyền-năng
biến chuyển chứ không cầm quyền năng tạo đoan.
PHÁP vận hành
mà sanh ra Khí, nên ta thấy mênh mông trước mắt ta là Khí.
Vậy Khí là gì?
Khí là khối sanh quang vạn-vật nhờ thở khí ấy mà sống, cho
nên chữ KHÍ là sự sống của vạn-vật, do KHÍ là PHÁP biến tướng ra vạn-vật. Thế
nên Đấng thứ nhì Chưởng quản cái sanh khí ấy thường gọi là “2è Logos”
thuộc Âm cũng là Phật-Mẫu Chưởng quản cả cơ-quan tạo đoan này vậy.
Như chúng ta thấy cơ-quan
sanh-hóa vạn-vật và loài người là do Âm Dương phối hợp mà biến tướng.
Phật chiết tánh biến ra Pháp là ngôi thứ nhì thuộc Âm là
Phật-Mẫu, nhưng chúng ta không biết cái Bí-mật ấy là khi Âm Dương phối hợp biến
hình, mà Phật-Mẫu dùng gì để tạo nên cơ-quan hữu vi này. Vì bởi Phật-Mẫu dùng
khối sanh quang ấy có năng lực vận hành trong không khí, chúng ta không thể
thấy được. Khí biến ra hữu tướng là: Nước, Lửa, Gió. Rồi nước, lửa, gió vận
hành ra vạn-vật, đi từ Hỗn-Nguơn-Khí, Hư-vô-khí đến Huyền-ảnh-khí rồi mới biến
ra vạn-vật, tức là Huyền-Ảnh-khí biến ra Nhơn hình vậy.
KHÍ mà
khoa-học gọi là Nguyên-tử-khí (Atome). Nguyên-tử-khí có năng-lực vô biên mà
loài người đã đoạt được để dùng, chứ không biết nguyên căn và nguyên tánh của
nó đã đi đến mức nào. Kể từ ngày loài người tìm được nguyên-tử-chất và dùng
được cái nguyên-tử-khí ấy là cái khí sanh của vũ-trụ mà họ có biết đâu một ngày
kia phàm thế sẽ nương nhờ nguyên-tử-khí ấy mà Qui nguyên Thánh thể.
Thử hỏi Đức Chí-Tôn cho nhơn-loại đoạt nguyên tử-khí ấy để
làm chi? Chúng ta cũng nên tìm hiểu cái huyền-vi bí-mật ấy mà dù cho Đạo nào
cũng vẫn còn đương mơ tưởng
để kiếm hiểu. Ngày hôm nay nguyên-tử khí dùng để giết người thì biết đâu sau
này nó sẽ là phương cứu tử huờn sanh cho người và nó sẽ đem loài người đến địa
vị trường sanh bất tử. (TĐ I/ 45-46)
Bởi nguyên-tử-khí là căn nguyên sự sống của vạn loại, nếu
nó đã làm chết người được thì nó cũng sẽ làm sống được. Cái Khí ấy sanh trước
hết là Nước, lửa, gió vận hành tạo ra hữu hình là vạn-vật. Vì cớ mà con người
đối với vũ-trụ hình ảnh thế nào thì tạo đoan cũng thế ấy, nên mới lấy Càn khôn
làm Đại Thiên Địa, còn con người là Tiểu Thiên Địa. Mạng sanh của con người
đồng thể cùng Càn khôn tức là sự sống phải tương liên với Chí-Tôn mà Chí-Tôn
lại cầm quyên năng vô đối.
2 - Tại sao phải Xá chữ khí?
Người Tín hữu khi làm Lễ Đức Chí-Tôn xong liền quay ra phía
sau bàn Hộ-Pháp Xá chữ KHÍ, nghĩa là gì?
Đức Hộ-Pháp giải như sau:
“Cái Xá ấy chẳng phải làm Lễ trọng Chức-sắc Hiệp Thiên-Đài
từ lớn đến nhỏ, mà là Xá chữ Khí.
Chữ KHÍ là nguồn cội của pháp đã biến sanh vạn vật. Phật là
trước, tới Pháp là thứ, kế Tăng là tiếp theo.
Cái Xá ấy là kính Đệ Tam qui. Trong Pháp ấy xuất hiện Phật-Mẫu kế tới Vạn-linh.
Vì cớ cho nên Diêu-Trì-Cung và Hiệp-Thiên-Đài có tình mật thiết cùng nhau về
mặt căn cội Pháp để vận hành nguơn Khí tạo Vạn linh thì vị Hộ pháp do Di-Đà
xuất hiện, rồi kế vị Hộ-Pháp và kế tiếp Long Thần Hộ-Pháp cùng toàn bộ
Pháp-giới đương điều khiển Càn Khôn vũ trụ cũng đều do nơi CHỮ KHÍ mà
sanh sanh hóa hóa.
Chào CHỮ KHÍ tức là chào cả Tam qui thường bộ pháp giới tức
là chào mạng sanh của chúng ta, chớ chẳng phải chào HỘ-PHÁP Thập Nhị Thời quân,
Thập nhị Địa chi đã xuất hiện mà
đang thi-hành sứ mạng nơi Hiệp Thiên-Đài, mà chào toàn thể Vạn linh đã sanh hóa
từ tạo thiên lập địa”.