Đại Đạo Nhập Môn - 2/4 (Nguyên-Thủy)

3 - Ý nghĩa của Khí:
Theo Kinh Dịch, Khí là nguyên-ủy của vạn-vật hữu hình, khí này đã bao trùm vũ-trụ từ lúc còn trong trạng thái đầu tiên, tức là chưa có sự động, tĩnh. Nhỏ nhất không nơi nào, vật nào mà không có nó ở bên trong gọi là Tiểu nhất.
Để mô tả cái Khí bao trùm vũ-trụ là cái khí đầu tiên tức là Nguyên khí, từ đó sinh ra vạn-vật và con người ấy là chí đại. Đến như chí tiểu thì trong mỗi vật dù là chỗ nhỏ đến đâu,
nó cũng chỉ là một dạng khí-hóa, khí này gọi là Vô cực. Nó là cái làm cho “Vật là vật”, “người là người”. Từ đó người xưa đánh giá cấp bậc khí-hóa ở mỗi vật hay mỗi người.

Khí ở trên trời đến lúc sẽ thanh tịnh, quang minh, dầu rằng cái minh đức vẫn luôn luôn ẩn tàng, nhưng lúc nào cũng đi mạnh mà không ngừng nghỉ.
Ôi! Thiên khí giáng xuống, địa khí thăng lên tạo thành quẻ Địa Thiên Thái  tức là một sự hanh thông.
Sự vận hành và dụng sự của nó không bao giờ ngơi nghỉ cho nên không cần đợi đến lúc hạ xuống mới có. Ở đây người xưa muốn nói rằng: Thiên-khí phân bố ở khắp nơi, hóa sinh vạn-vật, nhưng cái thể và cái vị của nó vẫn tôn quí cao thượng vậy”.

Về quyền năng thì:
“Đức Chí-Tôn là Đấng tự hữu, hằng hữu mà tự thử tới giờ bất kỳ một Đấng Thiêng-liêng nào cũng không hiểu rõ nguyên-căn của Đức Chí-Tôn, chỉ biết cái quyền-năng vô đối của Người mà thôi.
Ngày giờ này:
“Đức Phật-Mẫu ban sơ đến Hiệp Thiên-Đài làm MẸ của chữ Khí tức là Khí sanh vạn-vật. Lấy nguơn pháp trong chữ Khí biến thành Càn khôn vũ trụ, nên Phật Mẫu trước đến Hiệp-Thiên-Đài thuộc Pháp, tức là tòa ngự của Người, rồi sau mới lập Cửu-Trùng-Đài”. (TĐI/61) 

C - Dâng Tam Bửu

Trọng giá của TAM-BỬU mà CHÍ-TÔN ưa chuộng để dâng Đại Lễ cho Ngài là nguyên-nhân chấm dứt cái hoạ tranh thù đã gây nên trường oan-nghiệt cho toàn thế giới (Đức Hộ-Pháp)  Ðền Thánh, 01 tháng chạp năm Ðinh Hợi (1948):
Bần-Ðạo xin nhắc lại một phen nữa, khi nào hành lễ lúc dâng Tam Bửu:
Hễ dâng Bông lên là dâng cái thể hình của chúng ta đó, ta cúi đầu cầu nguyện Chí Tôn“Con xin dâng mảnh hình hài của con cho Chí Tôn dùng phương nào thì dùng”.
- Khi dâng Rượu cầu nguyện: “Con xin dâng cả trí thức tinh thần của con cho Chí Tôn dùng phương nào thì dùng”.
- Khi dâng Trà cầu nguyện: “Con xin dâng cả linh hồn con cho Chí Tôn dùng phương nào thì dùng”.
Câu chót nếu ta khôn ngoan nguyện như vầy:
 “Cả linh hồn, cả trí não, cả hình hài con, Thầy đào tạo đó là của Thầy thì do nơi quyền hành độc đoán của Thầy định”. Ðó ta cầu nguyện như vậy với Chí Tôn.
-Bần Ðạo đã giảng Tam Bửu, tại sao Chí Tôn lấy Bông tượng trưng hình hài, Ngài muốn nhìn con cái của Ngài bằng cái giá trị tốt đẹp như con mắt ngó thấy cái Bông.
-Ngài lấy Rượu là muốn tinh thần của loài người cường liệt như rượu mạnh vậy.
-Ngài lấy Trà là muốn chơn linh ra điều hòa như trà vậy. Ngài lựa ba món đó cốt yếu là như thế.

* Ngày nay Bần Ðạo giảng ba ngôi hiệp nhứt của Ðức Chí Tôn

“Cả thảy mỗi phen vào Ðền Thánh nắm sanh khí ấy tạo cả cơ quan hữu hình nầy, dầu sắt đá cỏ cây, cả thú vật vạn linh hữu tướng, thuộc về Tăng.
Ðứng đầu tiên hết Chí Tôn tức là Phật nắm cả cơ quan bí mật tạo thành Càn Khôn Vũ Trụ.
Ðạo nầy luật thế nầy, Ðạo kia luật thế khác, nhưng không khác hơn Phật Giáo.
Giả thí như Thánh Giáo Gia Tô cũng có ba ngôi (la trinité): Le Père, Le Fils et Le Saint Esprit (Ðức Chúa Cha, Ðức Chúa Con và Ðức Chúa Thánh Thần). Ðức Chúa Cha là Phật, Ðức Chúa Con là Pháp, Ðức Chúa Thánh Thần là Tăng.
Không Ðạo giáo nào thuyết minh rõ ràng cơ tạo đoan, lấy thuyết hỗn độn sơ khai phân chia: Khí chi khinh thanh thượng phù giả vi Thiên, khí chi trọng trược hạ ngưng giả vi Ðịa  (Hễ khí thanh thì lên làm Trời, khí trược thì hạ xuống làm đất).
Cả vật loại hữu tướng nầy có hai quyền năng sản xuất:             
- Ngôi Chí Tôn.
- Ðức Mẹ.
Cả quyền năng ông cha chúng ta đào tạo thế nào, ngày nay quyền năng Chí Tôn cũng đào tạo thế ấy, mà bà mẹ chúng ta thế nào thì mặt luật ấy không khác nào quyền năng vô tận của Phật Mẫu dùng đặng đào tạo Càn Khôn Thế Giái, chúng ta không biết, không thể đoán được, luật ấy không xa.
Chí Tôn là Phật, Phật Mẫu là Pháp, Càn khôn là Tăng, mặt địa cầu nầy đến 3.000 thế giái cũng là Tăng.
Nắm quyền trị thế là Hạo Nhiên Pháp Thiên, chính quyền năng Chí Tôn định, địa cầu nầy không định khác, chỉ có một mặt Trời nầy không có mặt Trời khác, trong 24 giờ có một ngày, Ðấng cầm quyền trong pháp giới là Hư Vô Cao Thiên vâng mạng lịnh Hạo Nhiên Pháp Thiên làm cho vũ trụ khỏi tương tàn với nhau. Ðịa cầu nầy nếu không mặt luật đạo đức thì sanh ra bậy bạ con người không chắc sống.
Bây giờ chúng ta quan sát Hỗn Nguơn Thượng Thiên, ngày nay Ðức Phật Di-Lạc ở nơi Hỗn Nguơn Thượng Thiên cầm cả hành tàng Càn Khôn Vũ Trụ, giờ Ngài đương cầm quyền cả vật loại.
Trước khi nguyện lấy dấu và niệm: Nam Mô Phật, Nam Mô Pháp, Nam Mô Tăng, dám chắc thật đích xác ba ngôi ấy chưa ai biết rõ.
Ngày nay Bần Ðạo giảng: Phật là gì? Phật là một Ðấng toàn tri toàn năng, người ta lầm lạc tưởng không thấy hình dạng là không có, người thế gian lầm lạc nhiều lắm. Họ quả nhiên là người sống hiện tại chỉ khác hơn chúng ta là không có thi hài mà thôi. Ðấng toàn tri toàn năng ấy là Ðấng đầu tiên hiệp lại với Chí Tôn.
Bần Ðạo đã giải nơi Phật có ba cảnh đặc biệt:
1 - Hạo Nhiên Pháp Thiên tương liên hiệp một cùng Ðức Chí Tôn.
2 - Hư Vô Cao Thiên thuộc về Pháp giới cầm cả luật Thiên Ðiều.
3 - Hỗn Nguơn Thượng Thiên thuộc Tạo hóa, thuộc Tăng. Phật vị có ba đẳng cấp ấy đặng nắm cả quyền năng Càn khôn Thế giái.
Phi Tưởng Diệu Thiên nắm quyền hành tạo đoan loài người thuộc Phật, đồng thể với Phật.
Tạo Hóa Huyền Thiên thuộc Pháp và có ba quyền tạo đoan thế giái hữu hình nầy vô cùng tận. Tạo hóa cầm sanh khí để tạo sanh vật.
Phi Tưởng Diệu Thiên, Tạo Hóa Huyền Thiên. Bây giờ tới Phi Tưởng Diệu Thiên lãnh phận sự nơi Ðức Chí Tôn cầm nguơn khí của con người, giữ sanh mạng vạn vật kêu là vạn linh.
Tới Tạo Hóa Huyền Thiên, Phật Mẫu cầm pháp chuyển cơ sanh hóa không cùng tận, cả loài người, cây, cỏ, sắt, đá, cũng tấn lên phẩm người nữa, là nhờ tay của Ðức Phật Mẫu nắm Pháp biến xuất. Cả thi hài, chơn linh, trí não pháp thân luân chuyển sanh sanh tử tử. Nợ sanh tử ấy là bài học của Tạo hóa trong các cơ thể ấy, loài người học làm đặng biết, đặng chi? Ðặng tạo Pháp thân huyền diệu được toàn thiện toàn mỹ, toàn tri toàn năng như Phật Mẫu đã làm, ta làm đặng học hỏi tạo Pháp thân do quyền lực thuộc Pháp, hình hài xác thịt thuộc Tăng. Thây chúng ta thay đổi lăn lóc trên đường sanh sanh tử tử. Cũng như Phật ở tối cao tối trọng, gần Chí Tôn là Hạo Nhiên Pháp Thiên. Các Ðấng ấy hữu sanh hữu tử tri khổ nghiệp chướng luân chuyển hoá sanh, năng du ta bà thế giái độ tận vạn linh đắc qui Phật vị.
Các Ðấng ấy đã chịu như chúng ta ngày nay đặng đi đến toàn thiện, đặng toàn tri toàn năng, họ đi trước, mình đi sau, họ cao mình thấp thỏi, con đường họ đi mình cũng sẽ tới. Một điều ta nên để ý hơn hết là chúng ta phải hiểu rằng: Mặt thế nầy chưa biết ai cao ai thấp. Nơi Hạo Nhiên Pháp Thiên một vị Phật cao trọng toàn tri toàn năng gần như Ðức Chí Tôn nữa mà xuống tại thế nầy đặng học, bài học khổ dám làm kẻ ngu dốt lắm.
Chúng ta thấy hình thể một vị Phật Mahâsarouth là một vị Chí Phật như Ðức Cakya-Mouni đến thế gian bưng Bình Bát Du để xin cơm đặng nuôi kẻ khổ. Một người ăn mày ở thế gian như vậy mà nơi cửa hư không lại có quyền năng vô tận vô đối. Ðến Ðức Chúa Jésus Christ là một vị Christna Vichnou đệ nhị kiếp Chí Tôn giáng linh xuống làm một vị bần hèn khổ não để đi xin từ chén cơm, từ miếng bánh mì đặng nuôi kẻ đói khó. Ðó là bài học trước mắt phàm chúng ta đã thấy.

Ðấng Tạo Ðoan đưa tay xin cho loài người ăn, đó là Người cầm quyền năng nuôi khắp vạn vật Càn Khôn Võ Trụ. Thế gian chưa hề thấy và chưa hề biết.”

D - THỜ THƯỢNG-ĐẾ

1 - Tại sao nhân-loại phải thờ Đức Thượng Đế trong buổi Tam-kỳ Phổ-Độ này ?
a/ - Lý-do nơi Trời:
“Phàm con người phải biết có chi trên đầu. Cái không-trung trên đầu ta đó là Trời. Đấng cầm quyền trên ấy là Đấng Tạo-hóa, là Ngọc-Hoàng Thượng-Đế, là Chúa tể cả Càn Khôn Thế Giái.
Nay Đấng Tạo-hóa lấy danh lập Đạo xưng là“ Cao Đài Tiên Ông Đại-Bồ-Tát Ma-Ha-Tát giáo Đạo Nam phương”, dùng huyền-diệu Tiên-gia đến dựng nơi nước Nam ta một nền Chơn-Đạo rất cao-thượng mà độ rỗi nhơn-sanh khỏi luân-hồi, gọi là Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ.
Đức Thượng-Đế vì thương-yêu nhơn-loại đến độ rỗi chúng ta, lại gọi mình là Thầy, kêu chúng ta là Môn Đệ. Vậy nên chúng ta phải hết lòng kính mến và sùng bái Đấng Tạo-Hóa và hết dạ tín-ngưỡng cái Đạo rất huyền-vi mầu-nhiệm của Đấng Chí-Tôn.
Cái tông-chỉ của Đại-Đạo là gồm cả ba Đạo chánh
là: Nho, Thích, Đạo, chuyển cả ba Đạo ấy mà hiệp lại làm một. Nên chi chúng ta tu Đại-Đạo thì phải noi theo tông chỉ của Tam-Giáo mà tập rèn tâm tánh, là phải nắm trọn Tam cang Ngũ thường, vẹn giữ Tam qui Ngũ giái và cần luyện Tam bửu Ngũ-hành.
Người mà gồm được hết cả ba thì là gần Thần, Thánh, Tiên, Phật vậy.

b/ - Lý-do nơi người:
Thầy dạy: Chư Môn Đệ nghe!
“Phần nhiều trong các con chẳng để lòng thờ kính Thầy, tưởng cho đem thờ Thầy vào nhà là chủ-ý cầu một việc lợi riêng chi cho gia-quyến vậy thôi, chớ chẳng hiểu là một nguồn trong sạch để rửa các lỗi phàm-tục của các con. Nhiều đứa lại còn mơ-hồ, đã thờ Thầy mà còn chưa chắc ý rằng thờ đặng chi và mở Đạo có ích gì?
Than ôi! Đã bước chân vào đường đạo-hạnh mà chẳng để công tìm kiếm, học hỏi cho rõ ngọn nguồn, thì làm phận-sự Môn-đệ như thế có ích chi cho nền Thánh Giáo đâu?
Đạo Trời khai ba lượt, người tục lỗi muôn phần, sanh đứng vào thế cuộc, chưa biết mình đã lãnh một vai tuồng, đặng chờ lúc kết-quả hồn qui Thiên ngoại, lánh khỏi xác phàm trở về nơi khởi hành mà phục các điều đã thi hành giữa sân khấu là chốn trần-ai khốn-đốn nầy; phận chưa xong phận, thân chẳng nên thân, thân phận lo tính chưa rồi, còn mong mỏi chi dụng mình vào đường đạo-đức để cho có ích chung nữa đặng!
Lương-tâm của các con là một khiếu Thiêng liêng của Thầy ban để sửa trị riêng các con trong đường tội lỗi và ban thưởng trong việc nhơn-đức; làm một việc phải tức là do nơi ý Trời; phạm một nét vạy tà là cải nơi Thiên luật; phải quấy Thần, Thánh chỉnh chép biên, thưởng phạt duy đợi ngày chung cuộc! Khá biết lấy!” (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển Q.1  ngày 27-12-1926)
  
E - Ý NGHĨA THÁNH TƯỢNG THIÊN-NHÃN
(Tượng Ngũ Chi)

Đạo trải qua thời gian, Hội-Thánh cũng đã nhiều lần thay đổi Thánh Tượng Thầy:
Trong thời kỳ nền Đạo mới phôi-thai, Hội-Thánh ban cho toàn Đạo thờ “Thánh Tượng Ngũ Chi". Trong Thánh Tượng phần dưới Thiên-Nhãn-Thầy có in hình các Đấng Giáo-Chủ thời xưa: Tam-Giáo, Tam-Trấn, Ngũ-Chi. Đó là cách thờ-phượng Tam-Giáo Qui Nguyên Ngũ Chi Phục Nhứt.

Ý - nghĩa Tam Giáo:
-Phật-Đạo: Ở giữa là Đức Phật Thích Ca, Giáo Chủ Đạo Phật.
-Tiên-Đạo: Phía hữu là Đức Thái-Thượng Đạo Tổ, Giáo-Chủ Đạo Tiên (bên hữu của Chí-Tôn).
-Thánh-Đạo: Phía tả là Đức Khổng Thánh Tiên Sư, Giáo-Chủ Đạo Thánh (Bên tay tả của Chí-Tôn)

Tam Trấn Oai-Nghiêm:
Thay mặt cho Tam Giáo trong buổi Tam Kỳ Phổ Độ:
Phật Đạo: Phía hữu là Đức Phật Quan Âm, chủ về Phật Đạo.
- Tiên Đạo: Ở giữa là Đức Lý Thái Bạch, chủ về Tiên Đạo.
- Thánh Đạo: Phía tả là Đức Quan Thánh Đế Quân, chủ về Thánh Đạo.

Ngũ Chi Đại-Đạo:
Kể từ trên xuống: Ngũ Chi Đại-Đạo là:
- Phật Đạo: Đức Thích-Ca Mâu-Ni Thế Tôn chưởng giáo Đạo Phật.
- Tiên Đạo: Đức Lý Thái Bạch Chưởng-giáo Đạo Tiên thay quyền  Tiên Đạo.
- Thánh Đạo: Đức Chúa Giê-Giu, Giáo-chủ Thánh Đạo.
- Thần Đạo: Đức Khương Thái Công, Giáo-chủ Thần Đạo.
- Nhơn Đạo: Có 7 cái Ngai thể về Nhơn Đạo gồm có: Một Ngai Giáo-Tông, ba Ngai Chưởng-Pháp,  ba Ngai Đầu-Sư.

Hình thức thờ như trên có ý-nghĩa là: Tam Gíao Qui Nguyên Ngũ Chi Phục Nhứt, đó là Tôn chỉ của Đạo Cao-Đài kỳ ba chuyển thế và Cứu thế.
Đạo xuất ư Đông.

Thánh tượng Tam Trấn

Về sau Hội-Thánh chấn chỉnh lại để ban cho toàn Đạo thờ “Tượng Tam Trấn”. Trong Tượng Tam Trấn không có in hình các Đấng Giáo Chủ, nhưng phần dưới Thiên Nhãn Thầy có ba khuôn vẽ bằng Cổ Tự, đó là Thánh-danh của các Đấng Tam Trấn Oai Nghiêm trong buổi Tam Kỳ Phổ Độ:Thánh tượng này phía trên có 6 chữ:

ĐẠI-ĐẠO TAM-KỲ PHỔ ĐỘ 
dưới cùng là danh-hiệu Tam-trấn, từ trái sang phải:
QUAN-ÂM BỒ-TÁT   (tượng Phật-đạo)
 THÁI BẠCH KIM TINH
  (Tượng Tiên Đạo)
 QUAN THÁNH ĐẾ QUÂN 
關聖帝君 (Tượng Thánh Đạo)
Ngay trong hiện tại, toàn Đạo đang thờ Thánh Tượng Ngũ chi như hình trên.
Trong tượng Ngũ-Chi nhận thấy có phần chính-yếu là Thiên-Nhãn Thầy ở chính giữa có 32 tia hào-quang cả thảy. Kế đến là mặt trời và  mặt trăng tức là Âm Dương nhị khí.Dưới là Tam-giáo, kế Tam Trấn, sau hết là Ngũ chi 

F - Ý nghĩa Chữ Đạo  12 nét

Nếu khai-triển chữ ĐẠO  có 12 nét sẽ thấy các phần sau đây ứng với sự thờ cúng trên Thiên Bàn vậy.
Trên cùng là hai nét phết, chính là Âm Dương của trời đất hoá sanh, hay nói gần hơn là do cha mẹ phàm thể sanh ra con người; chỉ Âm Dương tương-hiệp. Nét nhứt  đặt nằm ngang ở dưới là chỉ con người đứng đầu trong Vạn-linh, hiệp chung lại tức nhiên đủ Tam tài: Thiên, Địa, Nhân rồi vậy.
Bên trong là chữ Mục là con mắt, có 5 nét, tượng lý Ngũ-hành, thuộc Thổ, Thổ ở trung-ương, về tính chất thuộc màu vàng. Đối với sắc dân là giống dân châu Á, mà châu Á ở vào trung-tâm quả đất.
Từ chữ Mục(5 nét) thêm một nét phết thành ra chữ Tự (6 nét) Tự là chính mình, do vậy mà sự tu-hành là điều tự quyết, tự chủ, tự quyền, tự lập…để định cho phương châm hành-sử của mình. Thế nên số 6 là con số bình-hoà, hạnh-phúc.
Cả hai bộ-phận này ráp lại với nhau thành ra chữ Thủ  (9 nét) Thủ là đầu, là khởi điểm. Khởi điểm con người là Cung Mẹ Diêu-Trì thuộc từng thứ 9, cho nên khởi xuất từ đây mà khi trở về cũng là đây. Nhưng nơi đây chưa phải là bến ước mơ cho linh-hồn khi thoát xác mà phải có đủ Tam lập nữa; tượng bằng bộ sước (3 nét) mới thành ra chữ ĐẠO  (9 nét + 3nét =12 nét). Số 12 là con số của Thầy, chính là con đường Thiêng-liêng hằng sống là bến ước mơ của linh-hồn.
          
G - Tam thể xác thân

Trong con người có  ba thể, đó là: Xác thân, Trí não và  linh-hồn.
Xác thân tức là Thân thể của chúng ta là do cha mẹ sanh ra và nuôi dưỡng cho nên hình tướng. Sự sống của xác thân là trái tim  (Tinh) gọi là Đệ nhứt xác thân.
Trí não hay Chơn-Thần cũng gọi là Khí-phách của chúng ta do Đức Diêu-Trì Kim-Mẫu ban cho và lãnh phần un đúc cho khôn-ngoan. Thức ăn của trí-não là sự học-hỏi để tiến-hóa (Khí): Là đệ nhị xác thân.
Linh-hồn hay Chơn-linh của chúng ta do Đức Chí Tôn ban cho cũng gọi là điểm linh-quang của Thượng-Đế. Món ăn của linh-hồn chính là đạo-đức. Mỗi bữa vào cúng lạy chính là món ăn cho linh-hồn đó (Thần) là Đệ tam xác thân con người.
Tinh-  Khí- Thần gọi là Tam-bửu của người đó vậy.
Trong ba món báu nầy:
- Cái Trí (Chơn-thần) lại đứng vào phần trung gian rất quan-trọng trong người, để liên-hiệp giữa xác thân với Chơn-linh, đồng-thời dìu dẫn xác thân trên đường tấn hóa. Hay nói rõ hơn chính đệ nhị xác thân làm trung-gian cho đệ nhứt xác thân cùng với đệ tam xác thân vậy.
Con người cứ mãi luân-hồi chuyển kiếp nơi cõi phàm trần, sanh sanh tử tử là vì chúng ta không học hỏi về phần đạo-đức, trau-luyện cho trí tuệ được thông-minh, sáng-suốt nên dễ bị đệ  nhứt xác thân lôi cuốn vào vòng lục-dục thường tình, đi đến chỗ mê-muội, sa vào đường hắc ám tội lỗi, vì đó mà càng ngày càng xa lánh Chơn thần, nên nói là Tinh- Khí- Thần không hiệp nhứt là bởi cớ ấy. Nếu Tinh, Khí, Thần không hiệp nhứt thì người tu hành không mong chi đắc Đạo.

Do vậy mà người tu hành đắc Đạo cùng chăng cũng do nơi chơn-thần biết nghe theo lời đạo-đức để được thăng tiến. Việc xử thế tiếp vật cũng do trí não phán-quyết mà thôi. Nếu trái lại chơn-thần quá nghe theo sự đòi hỏi của  đệ nhứt xác thân thì khi hồn lìa khỏi xác bị xác thân lôi cuốn vào đất do luật hấp-dẫn của đất luôn nặng-nề bao phủ.
Trí-não có được khôn ngoan, phải biết nuôi nấng xác thân cho được khỏe mạnh, là dùng những món ăn tinh khiết, học hỏi theo Kinh sách có lợi về mặt tinh thần. Khi hồn xuất ra khỏi xác thì được nhẹ-nhàng thăng về Thượng giới. Kinh có câu:
   “Kêu chơn-hồn vịn níu chơn-linh.
   “Năng lai năng khứ khinh khinh.
   “Mau như điển chiếu nhẹ thành bóng mây”
Một triết-nhân nói “Một linh-hồn minh-mẫn trong một thân-thể tráng kiện”. Còn Đạo-pháp thì nói rằng một xác thân tinh-khiết mới xuất ra một chơn-thần tinh-khiết. Thế nên, dân-tộc Việt-Nam ngày nay Đức Thượng-Đế thân trao cho một mối Đạo nhà đủ sức “xây cơ chuyển thế bảo-tồn vạn-linh” Thất Nương Diêu Trì Cung có dạy:
“Lễ bái thường hành tâm Đạo khởi”.            
Về ba ngôi Phật, Pháp, Tăng, Thánh giáo Đức Chí Tôn dạy rằng:
“Khai Thiên Địa vốn Thầy, sanh Tiên Phật cũng Thầy. Thầy đã nói: Một Chơn Thần mà biến Càn Khôn Thế Giái và cả nhơn loại. Thầy là chư Phật, chư Phật là Thầy.
Các con là chư Phật, chư Phật là các con.
Có Thầy mới có các con, có các con rồi mới có chư Thần, Thánh, Tiên, Phật.
Thầy khai Bát Quái mà tác thành Càn Khôn Thế Giái nên mới gọi Pháp. Pháp có mới sanh ra Càn Khôn vạn vật rồi mới có người nên gọi là Tăng.
Thầy là Phật, chủ cả Pháp và Tăng, lập thành các Đạo, mà phục hồi các con hiệp một cùng Thầy”.
Đức Chí Tôn lập thành các Đạo thì có Tam Giáo Ngũ Chi Đại-Đạo.
-Tam Giáo là: Phật, Tiên, Thánh.
Ngũ Chi là: Nhơn Đạo, Thần Đạo, Thánh Đạo, Tiên Đạo và Phật Đạo.

H - Tại sao Đức Chí-Tôn phải trao cho Môn đệ của Ngài cả Ấn, Pháp, Bùa, Chú và còn bắt lập Minh thệ nữa?

Đức Hộ-Pháp thuyết 12-7 Mậu-Tý (1948)
Phương ngôn Pháp có câu “Aide-toi le ciel t'aidera” và Tiên Nho chúng ta nói “Tận nhơn lực tri thiên mạng” điều nầy hiển nhiên chơn thật lạ lùng, chúng ta rán cố gắng hết sức mình thì Chí Tôn mới ban cho cái huyền linh của Ngài, nếu không rán không thế gì hưởng được, mấy Em nhận biết điều ấy, chúng ta do Chí-Tôn kêu gọi đặng gầy dựng, ta phải cố gắng, vì lẽ không thăng tức ta phải đọa. Mấy Em nhớ, Ðạo của mấy Em chúng Qua đã tạo dựng cho mấy Em đặng ngày kia mấy Em tiếp theo Chơn Truyền Luật Pháp thay thế cho mấy Qua đặng truyền nghiệp cho hậu tấn.
Pháp nói “Chaque soldat a un bâton de maréchal dans son sacoche”, nghĩa là: Mỗi tên lính đều có cây giản của ông Thống Chế trong bị của họ, Qua nói rằng: Mỗi vị Tín đồ đều có cái mão của Giáo Tông và Hộ Pháp đội trước trên đầu, không lấy được là lỗi tại mấy Em, chẳng lẽ có một người mà người đó chết rồi là diệt tiêu nền Ðạo.
Ngày kia không có gì vui hứng cho Qua hơn, khi thấy xuất hiện trong mấy Em, khi Qua đã già vô tịnh thất an dưỡng tinh thần, mà thấy đặng mấy Em ở dưới bước lên ngồi địa vị cao trọng của Qua”.
Đạo là mênh mông vô hạn định, vậy thì người học Đạo biết tầm đến nơi đâu ? Nơi nào là điểm phát xuất ?
Thầy đã ân cần dạy bảo:
“Vũ-trụ mênh-mông vô-hạn-định chưa biết đâu là bờ bến. Ngoài vũ-trụ này lại còn có cả muôn vũ-trụ khác chứa đựng trong khối mênh-mông vô cùng, nghĩa là một vòng tròn chứa đựng trong một vòng tròn, một ánh-sáng chứa đựng trong một ánh-sáng vô biên.
Nhưng làm thế nào để Thầy điều-khiển được hết, cũng không có chi lạ, ấy là nhờ những định-luật thiên nhiên bất di bất dịch, cũng như cái lưới vãi chài, dầu có bao nhiêu đường tơ đi nữa, khi vãi ra thấy rườm-rà mà biết nắm mối thì phăng lên cái một. Kẻ biết nắm mối ấy là kẻ nắm Huyền pháp đó. Huyền-pháp là cái phép nhiệm mầu sâu kín chớ có chi khác lạ đâu. Huyền-pháp vốn cũng nhiều bậc nhiều tầng, cái này phải chịu hệ-thống của cái kia, cho nên con thấy nói có pháp cao, pháp thấp là như vậy đó. Kẻ nắm được pháp tối-linh là làm Thầy thiên-hạ  và cả Càn khôn.

Còn ẤN, PHÁP, PHÙ, CHÚ chẳng khác nào như những công-tắc điện để mở những nút dây điện khắp nơi. Phải có bình chứa điện cho đầy thì khi mở ra điện kia mới chạy, nếu không dầu mở cũng chẳng ích chi. Nên Đạo-gia nói Tu đắc Đạo là đoạt hết cơ mầu-nhiệm Thiêng-liêng đó. Chỉ nói như vậy thôi, chớ chưa phải đoạt hết đâu.! Chưa ai đoạt hết nỗi đâu, chỉ thấu-đáo một phần là quí lắm, nhưng cũng đủ quyền-lực sửa trị một khu vực, một tiểu Càn khôn, một nhóm hành-tinh, hay một trái địa-cầu có người ở; nhỏ hơn nữa là cai-trị  một nước, một tổng, một làng.
Bởi vậy TU THÂN là gốc, tức là tập nắm cơ mầu nhiệm gần nhất, chính là ở thân mình.

Hỏi vậy Tu theo Đạo Cao-Đài có sử dụng
Ấn- Pháp- Bùa- Chú không ?
- Có chứ !
Ấn  nghĩa là in dấu, là ẤN TÝ đó. Ấn ấy của Đức Chí-Tôn ban cho chúng sanh ngày nay, mà tất cả Tín hữu Cao-Đài đều có quyền sử dụng. Ấn này vừa là một điện đài thông công cùng Chí-Tôn và cả Thần Thánh Tiên Phật, ngoài ra còn có tác dụng trừ yêu diệt quỉ nữa, nó như lá bùa hộ mạng cho mỗi người có đủ đức tin nơi TRời Phật. Ấn Tý này ngày nay có tên là ẤN KIẾT QUẢ, tức nhiên báo cho nhân loại biết rằng: nếu tu thì thành, dữ thì đoạ. Vì nay đã đến thời kỳ gặt hái kết quả rồi. Bởi nay là qua Tam Kỳ Phổ Độ Tam Giáo Qui Nguyên Ngũ Chi Phục Nhứt, với chủ trương là Đại Đồng.
- Nhứt kỳ Phổ Độ như cái bông búp, thể hiện bằng cách chắp hai tay lại như bông mới thành hình.
- Nhị Kỳ Phổ Độ là thời kỳ các cánh hoa rụng đi nên cách bắt tay là nắm lại. Qua hai thời kỳ này người tu khó đắc thành chánh quả, khác nào lấy bông tươi mà gieo trồng thì làm sao trở thành cây giống được.!
- Phải đợi tới Tam-Kỳ Phổ-Độ này thì mới là thời kỳ KIẾT QUẢ tức nhiên là thành trái“Tu thì thành” là vậy.
PHÁP  là gì? – Là phương pháp, phép tắc dùng nước Thánh để rửa sạch những bịnh chướng, linh thiêng. Phân tích chữ pháp  thì một bên là chữ khử  một bên là bộ thuỷtức nhiên dùng nước (Thánh) để khử sạch.
Pháp của Đạo Cao-Đài là gì? –Tức nhiên là nước Âm Dương Thuỷ-hoả ký-tế, nước này gọi là “Ma-Ha-thuỷ năng huỷ oan khiên giải trừ nghiệt chướng chi đoạ”. Nước Thánh  được dùng trong việc Giải oan, Tắm thánh, cắt bảy dây oan nghiệt trong việc làm Phép xác, Phép độ thăng…
Bùa. Đây là bùa chữ Khí  tức là khí sanh quang, là sự sống của nhân loại. Bùa này của Đức Chí-Tôn ban cho tất nhiên sẽ rất linh diệu, chỉ để cứu bịnh mà thôi, không như bùa của các Thánh đã bị nhân loại lạm dụng quá nhiều, chỉ với mục đích lợi cho mình mà hại người.
Chú  tức là câu Thần chú, khi niệm lên là có tác dụng sai khiến. Câu chú ngày nay trong cửa Đạo Cao-Đài gọi là “Câu chú của Thầy” niệm là “Nam-mô Cao-Đài Tiên Ông Đại-Bồ-Tát Ma-Ha-Tát”. Với câu chú này khi niệm lên là được sự giải thoát, có sự huyền linh hộ trì.
Tóm lại, Đạo Cao-Đài có đủ Ấn –Pháp –Bùa- Chú rất phổ biến trong toàn Đạo, không một ai mà không biết và hầu như sử dụng tất cả mọi chỗ, mọi nơi.

Bài 4: CÚNG TỨ THỜI

Đức Hộ-Pháp giảng qua Lời Thuyết Đạo rằng:
“Bần-Đạo tưởng thấy trong trí cần phải buộc cả thảy Đi Cúng”. Đi cúng tức là Cúng Tứ Thời vậy.

Về việc Cúng Tứ thời:
Tân Luật: Điều thứ hai mươi qui định Chức sắc giữ Thánh Thất mỗi ngày phải làm Tiểu Lễ bốn lần theo Tứ Thời: Tý, Ngọ, Mẹo, Dậu. Mỗi thời phải cúng đúng 12 giờ khuya, 6 giờ sáng, 12 giờ trưa, 6 giờ chiều. Ở tư gia, dầu cúng một thời nào trong Tứ Thời cũng phải giữ đúng theo những giờ đã qui định trên đây mà hành lễ.
Một ngày có 24 giờ, chia làm hai thời điểm: ngày và đêm ấy là Âm Dương. Mỗi một thời điểm là 12 giờ, tượng là Thập Nhị Thời Thần, mỗi thời có 2 tiếng đồng hồ, chia làm bốn khoảnh-khắc: ấy là Tứ Tượng đó vậy.
- Thời Tý: từ 11 giờ (đêm) đến 1giờ khuya.
- Thời Mẹo:từ 5 giờ (sáng) đến 7 giờ sáng.
- Thời Ngọ: từ 11 giờ (trưa) đến 1 giờ trưa.
-  Thời   Dậu:  từ 5 giờ (chiều) đến 7 giờ tối.

Thời Tý: cúng đúng 12 giờ (khuya) là chính giữa của thời, là trung hòa chi Đạo. Có nghĩa rằng: Trung là cái gốc lớn của thiên hạ, hòa là cái đạt Đạo của thiên hạ. Cùng cực cả trung và hòa, thì Trời Đất định vị, vạn vật hóa dục. Tiên Nho có câu: “Trung giả dã, thiên hạ chi đại bản dã, hòa giả dã, thiên hạ chi đạt Đạo dã. Chí trung hòa, thiên địa vị yên, vạn vật dục yên”.
Đây là cái giờ giáp giới, ngày cũ hết, ngày mới bắt đầu, nên 12 giờ đêm của 30 tháng 12 (chạp) gọi là giờ giao thừa. Còn lại ba thời: Ngọ (12 giờ trưa) Mẹo (6 giờ sáng) Dậu (6 giờ chiều) cũng Cúng đúng chính giữa mỗi thời.
Sở dĩ phải cúng đúng vào các giờ qui định trên là vì Đạo Cao-Đài lấy hai chữ chính trung làm cơ bản, nghĩa là chánh Tý, chánh Ngọ, chánh Mẹo, chánh Dậu.
Đức Chí Tôn phân định thời Tý,Ngọ cúng rượuMẹo, Dậu cúng trà là một ý nghĩa huyền bí cao siêu để cho con cái của Ngài được hưởng Bí-pháp vô vi là một đặc ân vô giá của Ngài ban cho đó vậy.

* Thời Tý: Là thời cực Âm sanh Dương, là thời Nguơn Khí của Đức Chí Tôn phát khởi, do nhứt điểm Dương sanh chi thủy, vận chuyển Càn Khôn hóa sanh vạn loại, nên dạy hiến rượu là mượn cả khí phách, năng lực của toàn Môn-đệ giúp hay cho phần điển lực của Đức Chí Tôn. Hiến lễ Đức Chí-Tôn giờ nầy, chúng ta hưởng khí sanh quang của Đức Chí Tôn làm cho khí phách của chúng ta được mạnh mẽ, trí não sáng suốt.
Theo Dịch-lý là quẻ Phục (Địa Lôi Phục) tức nhiên quẻ trên là Khôn vi Địa, dưới là Chấn vi Lôi. Đọc là Địa Lôi Phục. Có một Dương chịu dưới 5 Âm. Dương bắt đầu tiến dần lên. Gọi là Dương tiến, tất nhiên Âm phải thoái, hay cũng nói là Âm tuyệt Dương sinh
Thời Ngọ: Là thời Nguơn Khí của Đức Chí Tôn đến buổi cực thạnh, đầy đủ ánh Dương quang, soi thấu cả nguồn sanh khí của toàn thể vạn loại, tức là cực Dương sanh Âm, là nguồn tịnh dưỡng Nguơn Khí, nên dạy hiến rượu. Hiến lễ Đức Chí Tôn giờ nầy, chúng ta được hưởng khí sanh quang của Đức Chí-Tôn, hàm dưỡng khí phách của chúng ta được an tịnh. Thế nên dạy hiến rượu cũng như Thời Tý vậy.
Dịch-Lý ứng vào quẻ Cấu (Thiên-phong Cấu) tức nhiên quẻ trên là Càn vi Thiên, quẻ dưới là Tốn vi Phong, đọc là Thiên Phong Cấu. Quẻ này có một Âm dưới 5 Dương, là thời Dương tiêu Âm trưởng, nghĩa là Âm lần lần lấn Dương ra ngoài.
*Thời Mẹo: Là thời Nguơn Thần của Đức Chí Tôn sau những giờ định tĩnh mà phát khởi biến hóa, sanh trưởng muôn loài, do Âm Dương vãng lai giao thới, gọi rằng Thủy Hỏa ký tế, vạn loại hữu sanh, nên dạy hiến trà dùng Âm Dương thủy là mượn cả linh-hồn yên tĩnh điều hòa của chư Môn-đệ giúp hay cho phần Bí-pháp của Đức Chí-Tôn. Hiến lễ Đức Chí-Tôn giờ nầy, chúng ta hưởng được Thần lực của Đức Chí Tôn mà làm cho Chơn Thần của chúng ta được tráng kiện.
Dịch-Lý ứng vào quẻ Đại-Tráng (Lôi Thiên Đại-Tráng) tức nhiên quẻ trên là Chấn vi Lôi, quẻ dưới là Càn vi Thiên, đọc là Lôi Thiên Đại-Tráng. Quẻ này 4 Dương ở dưới đã lấn dần hào âm ra ngoài, đó là thời Dương tiến Âm thoái, hay là Dương thạnh Âm suy.
*Thời Dậu: Là thời Nguơn Thần của Đức Chí Tôn giáng hạ và tịnh dưỡng, cũng do Âm Dương vãng lai giao thới, Thủy Hỏa ký tế, vạn loại toại sanh, nên dạy hiến trà.Dùng Âm-Dương-thủy cũng như thời Mẹo vậy. Hiến lễ Đức Chí-Tôn giờ nầy, chúng ta được hàm dưỡng Chơn Thần an tịnh.
Dịch-lý ứng vào quẻ Quan (Phong Địa Quan)
Tức nhiên quẻ trên là Tốn vi Phong, quẻ dưới là Khôn vi Địa, đọc là Phong Địa Quan (có khi đọc là Quán). Tất nhiên quẻ này là quẻ đảo ngược của quẻ Đại-tráng, có nghĩa là quẻ này có 4 Âm đã lấn hai Dương ra ngoài là thời của Âm trưởng thì Dương tiêu.
Thánh-ý của Đức Chí-Tôn mượn cả khí phách, năng lực và tánh chất điều-hòa của chư Môn đệ mỗi ngày trong bốn thời Cúng đều phải đến trước mặt Thầy đặng Cầu nguyện và Xét mình.
Việc dâng Tam Bửu lên Đức Chí Tôn là một điều hết sức quan trọng. Chỉ cúng lễ Đại Đàn và Tiểu Đàn mới được trọn dâng Tam Bửu mà thôi.
Cúng Đại Đàn, thì chỉ có nơi Tòa Thánh mới được cúng, còn các Thánh Thất, thì cúng Tiểu Đàn. Ở tư gia thì cúng thường.
Vậy chúng ta phải năng đến Tòa Thánh hoặc các Thánh Thất cúng Đàn để được dâng đủ Tam Bửu lên Đức Chí Tôn.
Theo Tân Luật qui định: người Đạo mỗi tháng phải đến Thánh Thất hiến lễ trong hai ngày Sóc- Vọng. Điều nầy, chúng ta cũng không còn chần chờ gì mà không làm cho hết bổn phận, vì một tháng chỉ có hai ngày thôi.

1/ - Giá trị của việc Cúng Tứ thời:
Có khi nào ta nghĩ rằng tại sao phải cúng Đức Chí Tôn và Phật-Mẫu mỗi thời, mỗi ngày không? Giá trị của sự Cúng kính ra làm sao? Và khi nào được nghỉ Cúng?
Thuở Đức Hộ-Pháp còn sanh tiền Ngài cũng lo ngại cho loài người vì sự văn-minh tuyệt đỉnh bị “giục thúc bởi phương sống vật chất, họ tìm hạnh phúc trong cái sống vật hình, vì cớ Đạo-giáo mất quyền”.
Ngài vấn nạn Đức Lý Giáo-Tông:
“Đương thế kỷ hai mươi này văn-minh cực điểm đã đi quá cao rồi, đem đạo-đức tinh thần làm thuyết cứu thế sợ chẳng có kết quả. Tôi công nhận rằng trước hai ngàn năm có lẽ nhơn loại còn bảo thủ được khối thiên lương, biết xu-hướng đạo-đức; tinh thần đạo-đức buổi ấy dường như gặp một mảnh ruộng có nhiều phân nên hột giống mới mọc đặng, còn thế-kỷ hai mươi này là thời-kỳ văn-minh vật chất, nếu đem đạo-đức ra làm môi giới cứu vãn tình thế cho đời e vô hiệu quả.
Đức Lý, Ngài than, nói quyết đoán rằng:
- Theo lẽ Hiền-hữu nói nhơn loại ngày giờ này không cần đạo-đức có phải?
Bần-Đạo trả lời: Thật vậy! Nhơn-loại buổi này không cần đạo-đức, chỉ tìm hạnh phúc nơi văn-minh khoa học cũng có thể được chứ?
Ngài cười:  Văn-minh khoa-học chỉ nuôi phần xác thịt mà thôi, con phần linh hồn chắc-chắn họ sẽ đói!
Bần-Đạo vấn nạn tiếp:  Tại sao Ngài nói linh-hồn đói? Linh-hồn có ăn sao mà đói ?
- Phải! Phải có vật-thực đặng bảo dưỡng nó như thi hài vậy, nếu không vật thực nó sẽ tiều-tụy rồi chết mà chớ!
Bần Đạo lại hỏi: Đạo-đức tìm nơi đâu mà có đặng?
- Tức nhiên tìm nơi cửa Thiêng-liêng hằng sống mới có, mà tìm nơi cửa Thiêng-liêng hằng sống tức là cửa Đạo. Buổi ăn của linh-hồn là buổi ta vô Đền thờ Cúng đấy! Ta không thấy mùi của nó tức chưa hưởng được, tưởng vô Đền thờ là bị luật buộc, không dè mỗi phen đi cúng tức là cho linh-hồn ăn vậy! Bần Đạo tưởng thấy trong trí cần phải bắt buộc cả thảy đi cúng. Vì trong thâm tâm Bần Đạo định mấy người chưa biết mùi của nó, cũng như kẻ nhà quê đưa cho gói bánh ăn chẳng được, rồi khi đã biết mùi rồi bán cả áo quần mà mua ăn” (TĐ II/152).

Vì tính cách trọng-yếu đó mà Đức Phật Quan-Âm nhắc nhở rằng:
2/ - Phải năng cúng kiến:
Thánh Giáo của Đức Quan Âm Bồ-Tát dạy:
"... Các em phải lo cúng kiến thường:
1- Một là tập cho Chơn Thần được gần gũi các Đấng Thiêng Liêng cho đặng xán lạn.
2- Hai là cầu khẩn với Đức Đại Từ Bi tha thứ tội tình cho các em và cả chúng sanh.
3- Ba là có tế lễ thì tâm mới có cảm, cảm rồi mới ứng, ứng là lẽ tự nhiên.
4- Bốn là tâm có cảm thì lòng bác ái mới mở rộng, mà nhứt là khiếu lương tri, lương năng của các em cũng nhờ đó mà lần hồi thành ra mẫn huệ. Các em nhớ à! ..." (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển Q.2,  ngày 08--05-1933).

3/ - Cúng phải nghiêm trang:
Thánh Giáo Đức Chí Tôn dạy:
"Thầy hằng nói với các con rằng: "Thà là các con lỗi với Thầy,  thì Thầy vì lòng từ bi mà tha thứ, chớ chẳng
động  đến  oai linh  chư  Thần,  Thánh,  Tiên, Phật,  vì họ chẳng tha thứ bao giờ."
Thầy lại cũng đã nói: "Mỗi khi Chơn linh Thầy giáng Đàn, thì cả vàn vàn muôn muôn Thần, Thánh, Tiên, Phật theo hầu hạ. Các con nếu mắt phàm thấy đặng, phải khủng khiếp kinh sợ vô cùng! Nhưng thấy chẳng đặng, nên tội cũng giảm nhẹ đó chút.
Thất lễ là đại tội trước mắt các Đấng Chơn linh ấy! Thầy phải thăng cho các con khỏi hành phạt. Thầy chẳng buổi nào chấp trách các con, bởi lòng thương yêu hơn chấp trách rất nhiều. Sợ là sợ cho các con mất đức với chư Thần, Thánh, Tiên, Phật.
Xem đó, thì các con khá dè dặt, kỉnh Thần, Thánh cho lắm! Vì Thầy là bậc Chí Tôn, lòng hay quảng đại mà tha thứ, chớ Thần, Thánh hễ các con có lỗi, thì cứ Thiên điều mà quở phạt các con nghe à!” (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển Q.2,  ngày 15-10-1926)

Nếu hiến lễ Đức Chí Tôn mà không nghiêm là một điều bất phước cho chúng ta đó vậy: Chúng ta sẽ bị Thần, Thánh, Tiên, Phật quở trách mà chính mình không hề hay biết, đến khi biết được thì chừng đó ăn năn đã muộn. Vậy nên phải hết sức cẩn thận và cúng lễ Đức Chí Tôn phải thật nghiêm trang, thì mới khỏi phạm vào các lỗi ấy.
Ngày xưa, chỉ có Thiên Tử mới tế Trời, làng nước thì tế xã tắc, tức là những bậc có công với đất nước, còn kể hàng thứ dân chỉ được tế Tổ Tiên cha mẹ mình mà thôi.
Nay gặp Đại Ân Xá kỳ ba, Đức Chí-Tôn cho mỗi người dân, tức là mỗi Tín đồ được tế Trời, thì không còn vinh diệu nào bằng. Như thế, chúng ta phải năng săn sóc Thiên Bàn cho được tinh khiết, phải năng cúng kiến để giúp ích cho chúng ta và khỏi phụ lòng từ bi của Đức Chí Tôn giáng dạy  trong  kỳ Ân Xá nầy,  cũng là  để khỏi thất lễ trong việc thờ phượng.
Nhưng cái Thiên bàn quan trọng nhất là cái tâm của mỗi người. Nếu bên ngoài ta săn-sóc Thiên bàn chưng hoa quả, nhan đèn cẩn thận bao nhiêu thì bên trong ta cần phải trau tâm sửa tánh. Vì lòng có trong sạch thì việc cúng kiến mới có hiệu quả. Kinh rằng:
 “Làm người rõ thấu lý sâu,
 “Sửa lòng trong sạch tụng cầu Thánh kinh”

4/ - “Không có một điều gì mà Chí-Tôn định trong Chơn giáo của Ngài, dầu Bí pháp dầu Thể-pháp mà vô ích đâu”
“Ðấng ấy là Ðấng tưng tiu, yêu ái con cái của Ngài lắm, thảng có điều gì không cần ích mà con cái của Ngài nói rằng không muốn, Ngài cũng bỏ nữa đa !
Từ ngày Khai Ðạo: Kinh kệ, Lễ bái, sự chi sắp đặt về đạo-đức cũng chính Chí-Tôn tạo thành, không phải do các Ðấng khác. Ngài buộc mình làm, tức có cần yếu, hữu ích chi chi đó Ngài mới buộc. Vì cớ nên thời giờ nầy, thấy Bần-Ðạo bó buộc nghiêm-khắc có lẽ những kẻ biếng nhác cũng phàn-nàn lén lút. Ngày cuối cùng các bạn gặp mặt Bần-Ðạo nơi Thiêng-Liêng, Bần-Ðạo sẽ hỏi các bạn coi khi còn ở thế Bần-Ðạo buộc cả thảy đi cúng là có tội hay có công? Công hay tội ngày giờ ấy Bần-Ðạo hỏi rồi chúng ta sẽ có một tấn tuồng tâm lý ngộ-nghĩnh với nhau vô cùng tận, chừng đó mới biết lẽ nên hư.
Ngày nay, giờ phút nầy, Bần-Ðạo đứng tại Giảng đài nầy để lời khuyên nhủ: Còn biếng nhác quá! Xác thịt đã hư rồi đến Linh hồn, phải coi chừng cho lắm, kẻo ngày kia ăn năn quá muộn.[ 01-01-Mậu Tý  (dl. 01-12-1948)]

5/ - Cúng là một hình thức xét mình:
Thầy dạy:“Trước khi vào lạy Thầy buổi tối phải tự hỏi mình coi phận sự ngày  ấy xong  chưa? Nếu  phận-sự chưa rồi, lương tâm chưa an tịnh thì phải biết cải quá, rán sức chuộc lấy tội lỗi của mình đã làm thì các con lo chi không bì bực chí Thánh. Thầy mong cho mỗi đứa đều lưu ý đến sự sửa mình ấy. Đặng vậy thì may-mắn cho Đạo và các con cũng sẽ đặng thung dung nêu gương cho kẻ khác”
Hiện nay có nhiều vị niên cao kỷ trưởng muốn được nghỉ  đi Cúng, vậy có đúng chơn pháp không?
Sau đây là lời phê của Đức Hộ-Pháp vào năm 1951 qua tờ xin của Chí-Thiện Lê-văn-Trưởng xin nghỉ cúng thời Tý vì tuổi già bịnh hoạn. Đức Hộ-Pháp phê rằng:
“Hễ càng già lại càng Cúng nhiều đặng dâng mạng căn số kiếp của mình cho Chí-Tôn định, ấy là bí-mật giải thoát của Chí-Tôn để nơi Cơ tận độ. Dầu đương giờ mình cúng mà chết trước mặt Người lại càng hay. Phải tuyên truyền cho ai cũng đều thấu đáo nghĩa lý bí-pháp này.
Khi đau ốm nằm dưỡng bịnh, hễ nghe thời Cúng là dậy dâng Tam bửu cho Chí-Tôn”.
Đức Hộ-Pháp thường nhắc: Điều trọng-yếu là cả Bí-pháp Đạo-giáo có liên quan mật thiết với Thể-pháp rồi cả thảy đều nghĩ, từ thử tới giờ Hộ-Pháp buộc phải đi Cúng, phải hành Đạo thế nào, không phải Ngài buộc mà Ngài hưởng một quyền lợi gì riêng hết, thử suy đoán chơn pháp  ấy rồi mới biết. Bần Đạo vì phận sự muốn cho con cái của Đức Chí Tôn tạo cơ giải thoát nên mới buộc gắt gao như vậy thôi”

5 - Dâng Tam Bửu
Khi dâng Tam bửu Đức Hộ-Pháp dặn:“Trong một thời Cúng, Bần Đạo đã căn dặn nhiều phen: Trọng hệ hơn hết là Dâng Tam bửu. Dầu cho tinh thần suốt buổi cúng có nhiều lúc lo ra đi nữa, đến khi Dâng Tam bửu, khuyên cả thảy định Thần đặng mật niệm Dâng ba bửu trọng hệ cho Chí-Tôn tức là giúp sức Bần Đạo hành pháp dễ dàng một
chút” [ĐHP: 14-02- Mậu Tý  ( dl: 24-03-1943)
Ấy vậy, muốn duy trì sự Hòa bình Đại-Đồng cũng do nơi gốc bí-pháp đó mà thôi, dầu triết-lý thâm uyên đạo đức mà Tôn-giáo nào cũng không qua lẽ ấy, nếu không đoạt được toàn lẽ ấy là đệ nhị xác thân của toàn thể ô trược tội tình thì thế giới sẽ điêu tàn tiêu diệt mà chớ!
Nay Đức Chí-Tôn khai Đại-Đạo đem Chơn-thần huờn nguyên cùng Tinh Khí là cơ mầu-nhiệm cho chúng sanh đắc Đạo. Ai biết noi theo chơn-truyền luật pháp giữ trai kỳ mười ngày đổ lên TRƯỜNG TRAI, đến ngày Công viên quả mãn đặng thọ truyền bửu pháp, Chơn thần được siêu thăng”
Do vậy mà:
“Thánh-ý của Đức Chí-Tôn khai mở Đại-Đạo Tam Kỳ Phổ-Độ Qui Nguyên Tam Giáo Phục Nhứt Ngũ Chi là muốn dung hòa tâm lý cả con cái của Người để cứu vãn trọn 92 ức nguyên-nhân vì thế mà bị sa-đọa nơi đây. Chí Tôn đã Đại-từ đại-bi chỉ rõ căn-nguyên và ban ơn cho ta, dạy-dỗ cho ta, muốn đoạt ngôi vị phải trau luyện cho: TINH hiệp với KHÍ, TINH KHÍ huờn THẦN là cơ huyền-bí để mà đoạt Đạo!”

1/ - Đức Thượng-Phẩm có giáng cơ dạy về cách Hiệp TINH – KHÍ – THẦN.
Khi nào ba thể của con người tinh luyện cho được hiệp một, thì con người ấy mới thấu hiểu cả Thiên cơ của Đức Chí-Tôn. Mà một khi con người đã thấu hiểu được Thiên cơ thì người ấy đã đoạt Đạo.
Bởi vậy cho nên người TU cần phải tập luyện thế nào cho Tam thể ấy được tương liên với nhau thì con người mới trở nên sáng suốt hơn cả thường tình.
Về Tam thể xác thân cấu tạo bởi nguyên-lý ấy.
Nói cho thật hữu vi thêm nữa thì Thái-cực là một khí chơn Dương do đó mà chỉ có thanh khí mới có thể tiếp được linh quang chiếu rọi. Phải rán học tập một ngày kia hữu dụng và sẽ được biết về mặt Bí-pháp tâm truyền, đây chỉ là Bí-pháp khẩu tụng mà thôi” (trích tài liệu Tam thể xác thân của Đức Thượng-Phẩm)

2/ - Tại sao phải Dâng Tam bửu?
Đức Hộ-Pháp nói:
“Đức Chí-Tôn muốn ta làm thi-hài hữu hình của Ngài tức nhiên Ngài đến lập Thánh-Thể của Ngài là Hội Thánh. Hội-Thánh của Ngài để thay hình ảnh cho Ngài. Muốn thay hình ảnh cho Ngài thì phải đổi cho Ngài cái gì?
- Ổng đem cơ giải thoát, đem phẩm vị Thiêng-liêng cho chúng ta, đem tận nơi tay cho chúng ta đặng chúng ta định vị. Rồi Ổng đòi chúng ta đổi chọn cái gì?
- Ổng đòi chúng ta đem đổi ba món báu là Tam bửu: Tinh- Khí - Thần.
Cái liên quan mật thiết: TINH, KHÍ, THẦN là gì?
- Đối với thi-hài chúng ta nó báu trọng thế nào mà Đức Chí-Tôn đòi bấy nhiêu đó mà thôi?
Nếu không có nó chẳng hề khi nào Đức Chí-Tôn tạo thành Thánh-Thể của Ngài đặng. Ngài lấy ba báu vật, tỷ như ba món báu trong mình chúng ta:
-  HOA,  tỷ như thân thể chúng ta.
- RƯỢU, Ngài tỷ như trí thức tinh thần khôn ngoan của chúng ta.
- TRÀ, Ngài tỷ như linh hồn của chúng ta. Mà thật ra trong mình có ba món ấy là báu mà thôi.
Ngộ-nghĩnh thay! Chúng ta nên để ý điều này: Đức Chí-Tôn biểu chúng ta mỗi ngày phải dâng ba món ấy, là ba báu trọng hệ hơn hết là:  TINH- KHÍ- THẦN.

6 - Xá chữ KHÍ
1/ - Khí là gì ?
Khí  là sự sống, đây là viết đủ nét. Bên trái có bộ mễ   Mễ là gạo. Tức nhiên người dùng gạo (hay các thứ cốc mễ) mà nấu lên cho bốc hơi, dùng vật dụng hứng lấy chất hơi ấy, nó sẽ ngưng đọng lại mà thành một thứ rượu. Rượu là do Khí bốc hơi mà thành. Vì vậy Lễ cúng có rượu tượng cho KHÍ.

2/ - Tại sao Đạo Cao-Đài thờ CHỮ KHÍ ?
Chữ Khí  ở sau ngai Hộ-Pháp (Hiệp-Thiên-Đài Đền Thánh Tòa-Thánh Tây-ninh). Riêng nơi các Thánh Thất thì chữ KHÍ  thờ nơi bàn Hộ-Pháp đều có chung một ý-nghĩa là KHÍ SANH QUANG của Càn khôn vũ-trụ, vạn vật nhờ Khí sanh quang hiện tượng ra mặt thế để bảo tồn cơ sanh hóa hay tấn hóa của toàn thể vạn loại tức là hữu sanh.

“Từ buổi trời đất biến sanh đã có cái khối Nhơn linh ấy là Cha của chơn linh, Cha của nhất điểm linh quang. Làm sao chúng ta hiểu linh quang ấy?
Vì ta xét từ trước: Đức Chí-Tôn dùng cái thanh khí ấy mà tạo ra loài người với đất, do thanh khí ấy mà biến thành vạn-vật. Loài người đến nay nhờ tiến hóa mà khôn ngoan cũng như vạn-vật nhờ tấn hóa mà cũng được toàn năng, toàn tri vậy
Các nhà triết học luận bàn đã nhiều, nhưng xét ra cũng không ai hiểu rõ nguyên-căn ấy.
Phật-giáo nói cái khối linh ấy phân tánh của mình ban bố ra cả vạn-vật, khối linh ấy trước khi phân tánh gọi là BRAHMA là Phật, đến khi phân tánh rồi thì Đấng thứ nhì là CIVA chủ về Pháp, Đức chí-linh cầm quyền-năng biến chuyển chứ không cầm quyền năng tạo đoan PHÁP vận hành mà sanh ra Khí, nên ta thấy mênh-mông trước mắt ta là Khí.
Vậy Khí là gì? Khí là khối sanh quang vạn-vật nhờ thở khí ấy mà sống, cho nên chữ KHÍ là sự sống của vạn vật, do KHÍ là PHÁP biến tướng ra vạn-vật. Thế nên Đấng thứ nhì Chưởng quản cái sanh khí ấy thường gọi là  “2è Logos” thuộc Âm cũng là Phật-Mẫu Chưởng quản cả cơ quan tạo đoan này vậy.
Như chúng ta thấy cơ-quan sanh-hóa vạn-vật và loài người là do Âm Dương phối hợp mà biến tướng.
Phật chiết tánh biến ra Pháp là ngôi thứ nhì thuộc Âm là Phật-Mẫu, nhưng chúng ta không biết cái Bí-mật ấy là khí Âm Dương phối hợp biến hình, mà Phật-Mẫu dùng gì để tạo nên cơ-quan hữu vi này. Vì bởi Phật-Mẫu dùng khối sanh quang ấy có năng lực vận hành trong không khí, chúng ta không thể thấy được. Khí biến ra hữu tướng là: Nước, Lửa, Gió. Rồi nước, lửa, gió vận hành ra vạn-vật đi từ Hỗn-nguơn-Khí, Hư-vô-khí đến Huyền-ảnh-khí rồi mới biến ra vạn-vật, tức là Huyền-Ảnh-khí biến ra Nhơn hình vậy.
KHÍ mà khoa-học gọi là Nguyên-tử-khí (Atome). Nguyên-tử-khí có năng-lực vô biên mà loài người đã đoạt được để dùng, chứ không biết nguyên căn và nguyên tánh của nó đã đi đến mức nào. Kể từ ngày loài người tìm được nguyên-tử-chất và dùng được cái nguyên-tử-khí ấy là cái khí sanh của vũ-trụ mà họ có biết đâu một ngày kia phàm thế sẽ nương nhờ nguyên-tử-khí ấy mà Qui nguyên Thánh thể.
Thử hỏi Đức Chí-Tôn cho nhơn-loại đoạt nguyên tử-khí ấy để làm chi? Chúng ta cũng nên tìm hiểu cái huyền-vi bí-mật ấy mà dù cho Đạo nào cũng vẫn còn đương mơ tưởng  để kiếm hiểu. Ngày hôm nay nguyên-tử khí dùng để giết người thì biết đâu sau này nó sẽ là phương cứu tử huờn sanh cho người và nó sẽ đem loài người đến địa vị trường sanh bất tử. (TĐ I/ 45-46)
Bởi nguyên-tử-khí là căn nguyên sự sống của vạn loại, nếu nó đã làm chết người được thì nó cũng sẽ làm sống được. Cái Khí ấy sanh trước hết là Nước, lửa, gió vận hành tạo ra hữu hình là vạn-vật. Vì cớ mà con người đối với vũ-trụ hình ảnh thế nào thì tạo đoan cũng thế ấy, nên mới lấy Càn khôn làm Đại Thiên Địa, còn con người là Tiểu Thiên Địa. Mạng sanh của con người đồng thể cùng Càn khôn tức là sự sống phải tương liên với Chí-Tôn mà Chí-Tôn lại cầm quyên năng vô đối.

3/ - Tại sao phải Xá chữ khí?
Người Tín hữu khi làm Lễ Đức Chí-Tôn xong liền quay ra phía sau bàn Hộ-Pháp Xá chữ KHÍ, nghĩa là gì?
Đức Hộ-Pháp giải như sau:
“Cái Xá ấy chẳng phải làm Lễ trọng Chức-sắc Hiệp Thiên-Đài từ lớn đến nhỏ, mà là Xá chữ Khí.
Chữ KHÍ là nguồn cội của pháp đã biến sanh vạn vật. Phật là trước, tới Pháp là thứ, kế Tăng là tiếp theo. Cái Xá ấy là kính Đệ Tam qui. Trong Pháp ấy xuất hiện Phật-Mẫu kế tới Vạn-linh. Vì cớ cho nên Diêu-Trì-Cung và Hiệp-Thiên-Đài có tình mật thiết cùng nhau về mặt căn cội Pháp để vận hành nguơn Khí tạo Vạn linh thì vị Hộ pháp do Vi-Đà xuất hiện, rồi kế vị Hộ-Pháp và kế tiếp Long Thần Hộ-Pháp cùng toàn bộ Pháp-giới đương điều khiển Càn Khôn vũ trụ cũng đều do nơi CHỮ KHÍ mà sanh sanh hóa hóa.
Chào CHỮ KHÍ tức là chào cả Tam qui thường bộ pháp giới tức là chào mạng sanh của chúng ta, chớ chẳng phải chào HỘ-PHÁP Thập Nhị Thời quân, Thập nhị Địa chi đã xuất hiện mà đang thi-hành sứ mạng nơi Hiệp Thiên-Đài, mà chào toàn thể Vạn linh đã sanh hóa từ tạo thiên lập địa”

4/ - Ý - nghĩa của Khí:
“Theo Kinh Dịch, Khí là nguyên-ủy của vạn-vật hữu hình, khí này đã bao trùm vũ-trụ từ lúc còn trong trạng thái đầu tiên, tức là chưa có sự động, tĩnh. Nhỏ nhất không nơi nào, vật nào mà không có nó  ở bên trong gọi là Tiểu nhất.
Để mô tả cái Khí bao trùm vũ-trụ là cái khí đầu tiên tức là Nguyên khí, từ đó sinh ra vạn-vật và con người ấy là  chí đại. Đến như chí tiểu thì trong mỗi vật dù là chỗ nhỏ đến đâu, nó cũng chỉ là một dạng khí-hóa, khí này gọi là vô cực. Nó là cái làm cho “Vật là vật” “người là người”. Từ đó người xưa đánh giá cấp bậc khí-hóa ở mỗi vật hay mỗi người.
Khí ở trên trời đến lúc sẽ thanh tịnh, quang minh, dầu rằng cái minh đức vẫn luôn luôn ẩn tàng, nhưng lúc nào cũng đi mạnh mà không ngừng nghỉ.
Ôi! Thiên khí giáng xuống, địa khí thăng lên tạo thành quẻ Địa thiên Thái tức là một sự hanh thông.
Sự vận hành và dụng sự của nó không bao giờ ngơi nghỉ cho nên không cần đợi đến lúc hạ xuống mới có. Ở đây người xưa muốn nói rằng: Thiên-khí phân bố ở khắp nơi, hóa sinh vạn-vật, nhưng cái thể và cái vị của nó vẫn tôn quí cao thượng vậy”.

5/ - Về quyền năng thì:
“Đức Chí-Tôn là Đấng tự hữu, hằng hữu mà tự thử tới giờ bất kỳ một Đấng Thiêng-liêng nào cũng không hiểu rõ nguyên-căn của Đức Chí-Tôn, chỉ biết cái quyền-năng
vô đối của Người mà thôi.
Ngày giờ này “Đức Phật-mẫu ban sơ đến Hiệp Thiên-Đài làm MẸ của chữ Khí tức là Khí sanh vạn-vật. Lấy nguơn pháp trong chữ Khí biến thành Càn khôn vũ trụ, nên Phật-Mẫu trước đến Hiệp-Thiên-Đài thuộc Pháp, tức là tòa ngự của Người, rồi sau mới lập Cửu-Trùng-Đài. (TĐI/61)
Khí  đây là cách viết giản thể,cũng là một phần nằm trong chữ Kiền  hay Càn là trời cũng là sự sống.
Kiền  tức là tráng kiện,mạnh mẽ, tính của Dương.
Chiết-tự chữ Kiền  thấy có hai phần: phần bên trái có hai chữ thập (thập là mười) chữ thập ở trên tượng trưng “thập phương chư Phật” chữ thập dưới là “Thập điện Diêm cung” giữa là chữ nhựt  (nhựt là mặt trời) chỉ
không gian vũ trụ mà vạn-loại đang sống. Phần bên phải là chữ KHÍ  (khí là sự sống, viết đủ nét là ) cũng gọi là khí sanh-quang. Nguồn sống của Trời đất
Như vậy Kiền có nghĩa là Trời, tức nhiên gồm các cõi vô hình cũng như hữu hình, nơi nào có khí sanh-quang của Thượng-Đế tức là có sự sống, mà sự sống tức là Đạo.

Nơi nào khiếm ánh linh quang của Thượng-đế ắt phải chịu u-ám, tối tăm, đó gọi là cõi Phong-Đô, Địa ngục.

7 - THIÊN-BÀN XẾP THEO CHỮ “CHỦ” tức là Đức Chí Tôn muốn cho ta làm Chủ (Chủ  là chúa)

Tại sao đức Chí-Tôn cho nhân loại thờ Thầy trên Thiên bàn có hình chữ CHỦ ?- Có nhiều nguyên cớ:
1- Là loài người phải biết có một Đấng làm chủ linh hồn mình, đó là Đấng Chúa Tể Càn Khôn Thế giới
Đức Hộ-Pháp nói“Chí-Tôn đã phú thác cho loài người làm Chúa vạn vật”.
“Cả chủng loại, loài người và vật loại, chúng ta quan sát ngoại thể thấy loài người và vạn vật phải ở chung hiệp cùng nhau, gọi là xã hội mới sống được.
Chúng ta thấy trước mặt nhiều vật loại sống đặng như ong, kiến, cũng nhờ tổ chức xã hội. Giống thú mà còn biết chung hiệp từ đoàn thể tức nhiên có tinh thần xã hội. Loài người cốt yếu sống cũng phải có xã hội. Lại nữa, nếu
chúng ta tìm chơn lý của Phật-giáo thì thấy Chí-Tôn đã phú thác cho loài người làm Chúa vạn vật. Ngài để tinh thần của loài người cao trọng, tức nhiên cho người có khối linh vĩ đại, trọng hệ hơn, đủ phương thế làm tròn trách vụ đối với vạn vật, tức Ngài định cho ta làm Chủ xã hội vạn linh.
Làm trách vụ tức nhiên có tinh thần cảm-xúc, mà cảm-xúc tức nhiên sanh tình. Tình là luật thiên nhiên của Chí-Tôn. Tình phân ra hai vở chánh:
- Nơi cõi phàm thì có luật định giới hạn, chúng ta thấy tạo luật pháp xã hội hiển nhiên.
- Nơi cửa Hư-linh cũng có đặc quyền, nên cũng phải có khuôn luật là Thiên-điều. Có nhiều vị Phật cầm vững quyền thưởng phạt ấy, gọi là nhơn quả, vay trả, hễ nên thì thưởng, còn hư phải thường, luật định như thế rất nên công bình chánh đáng.
Vì có khuôn khổ luật pháp do quyền Thiêng-Liêng của Chí-Tôn định, bằng chẳng vậy dữ cũng như hiền, lành cũng như ác hỗn-độn cả tinh thần của Chí-Linh, tổng số không mực thước, không căn đề, không cội rễ.
Ấy vậy Ðạo cốt yếu tạo khối tình ái tâm lý của loài người, biết mình là phần tử của xã hội, phải làm điều gì cho xã hội nhờ.
Gia-đình là một phần nhỏ trong xã hội, nếu biết gìn giữ thân thể, tôn trọng danh giá cha mẹ, anh em thảng có đứa du côn không kể gia-pháp, làm rối loạn gia-đình thì kẻ đó ai cũng muốn bỏ, muốn đưa ra khỏi gia đình tông tổ. Sợ e gia đình nào mực thước, thảng có điều vô phúc ấy sẽ xử đứa làm nhục đó, hình phạt nặng nề hơn kẻ tha nhơn.
Càn khôn là đại gia đình, cửa Ðạo cũng vậy, xã hội cũng vậy, là một gia đình có cha mẹ, bà con, như một tông tộc vậy.
Lớn hơn gia-đình là một quốc-gia, là một gia-đình lớn, gồm cả các gia đình tổng hợp lại, chiều theo một khuôn luật do quyền năng của Ðạo-giáo tức Ðại-gia-đình.
Ta lần lượt đi đến toàn nhơn loại hiệp lại thành Ðại gia đình.
Con người sanh ra phải biết trách vụ của mình, trong tiểu gia đình hay đại gia đình cũng vậy. Người ở gia đình chỉ xưng mình là con, vì cớ Jésus Christ chỉ xưng mình là con của Người (le fils de l'homme).
Ôi! Chỉ làm người mà được thành nhơn thì hiểu giá trị của nó thế nào?
Văn-minh Nho-giáo hiểu giá trị làm người ấy khó khăn lắm, khó mà minh biện được: “Vi nhơn nan, vi nhơn nan” (làm người khó, làm người khó). Tố tố vi nhơn nan (làm người rất nên là khó).
Mong làm người cho xứng đáng là người trong gia đình là khó khăn lắm, mà hễ làm người để dìu đỡ được gia đình, tức là Chúa gia đình đó;
Mình là người mà nâng-đỡ được quốc-vận, là Chúa của quốc gia.
Giờ ta thử hỏi một nền Tôn-giáo đem tâm lý loài người hiệp một lại là một điều đứng trên cái mức đại-gia đình đó: Làm người Chủ xứng đáng của gia-đình đã là khó, làm người Chủ xứng đáng của quốc-gia lại càng khó, rồi làm người Chủ xứng đáng của một nền Tôn-giáo không phải dễ.
Hễ làm chủ được xứng đáng, thì đối với nhơn quả, ta chỉ có nhơn mà không còn quả nữa. Người đã đem thân nầy ra làm Chúa gia đình, không còn là mình nữa mà là bậc tiền bối; người đáng là người Chủ của một nước là bực Thánh nhơn, người đáng là người Chủ một Tôn-giáo ấy là vị Phật.
Ấy vậy, chúng ta muốn quan sát một Tôn-giáo nào được gọi là Chánh-giáo, thì Tôn-giáo đó phải đủ yếu điểm tạo nên người chủ của nó đặng dìu đỡ các phần tử của Ðạo ấy, đủ hạnh kiểm, đủ quyền năng. Phải cao thượng hơn sự thường tình, đi cho vững trên con đường hằng sống mới xứng đáng là chủ của Ðại-gia-đình Càn-khôn Võ-trụ.
Cả phương pháp không mực thước quyền hành để đạt đến địa vị Chúa một Tôn-giáo thì không phải Chánh đạo.
Ta đã thấy gì? Ðạo Cao Ðài có không?
Ta suy xét coi ? Có hẳn ! Nếu con đường ấy, kẻ nào cố gắng thì nên người làm Chúa nền Tôn giáo của Chí Tôn đã tạo sẵn, có mực thước, chuẩn thằng, phép tắc, để cho người ấy lập nên địa vị. [03-01-Mậu Tý (12-02-1948)]

8 - Vào Đền Thánh phải bỏ hết phàm tâm:
Đức Hộ-Pháp dạy:
“Khi mấy Em vào hầu Lễ, nếu biết hưởng cái ân Thiêng-liêng ban cho đó, thì tinh thần được an tịnh và hạnh-phúc biết bao. Nếu biết hưởng thọ cái hồng ân đó, cũng như lúc mấy Em đói rồi có ai đem cho đồ ăn mà không biết hưởng thì làm sao no đặng, tất phải đói!
Đáng lẽ khi bước vô Bửu Điện, đi qua Hiệp-Thiên Đài thấy toàn màu đỏ, màu đỏ thuộc về xác thịt, vậy đi qua rồi phải tịnh tâm. Qua không nói ai, vì trước mỗi buổi đều tắm rửa, vô đó dầu hình thể mấy Em có nhơ-nhớp, thúi hôi, cùi đày mà cái Tâm của mấy Em trong sạch đó là cái Tâm vô tội. Dầu kẻ nào tội tình ưu lự thế mấy mà bước vô Đền Thánh rồi cũng phải nhập tánh cho thanh khiết, bỏ cả những tư-tưởng phàm tục, để Tâm nhứt nguyện mới có sự hưởng ứng. Mấy Em đem cái hình xác vào Đền Thánh, nhưng là cái xác vô tội đặng hiến cho Chí-Tôn. Nếu không vậy, thì có vào Đền Thánh: kẻ ngồi chỗ này, kẻ ngồi chỗ kia mà trong óc không tưởng niệm thì vô Đền Thánh có ích gì?
Đi Cúng, điều trọng-yếu nhứt là Tinh-thần, cái huyền-vi bí-pháp tinh thần ở đấy là Cửu-Trùng-Đài, rồi Bát-Quái-Đài thuộc về chơn linh; Ấy là linh tâm xuất hiện. Nếu mấy Em có cảm mới có ứng, mà nếu có ứng thì mấy Em mới hưởng được, thoảng không hưởng được là lỗi tại mấy Em không trọn tâm thành kính.
Vậy từ đây về sau, Qua chỉ xin mấy Em một điều: là hễ bước vô  Đền Thánh phải bỏ hết cả phàm tâm thì hạnh phúc sẽ to lớn, bằng chẳng vậy đừng đi Cúng, vì đến Cúng không những không hưởng được đặc ân mà còn bị tội là khác”

9 - Thánh Thể Đức Chí Tôn là ai?
Đức Hộ-Pháp nói: “Thánh Thể Đức Chí Tôn chẳng phải trong Hội Thánh mà thôi, mà cả toàn con cái của Ngài Nam, Nữ, nếu Qua không nói đến mấy em mới sơ sanh, nó cũng là đám Thánh Thể của Ngài, là buổi may duyên của chúng nó ngộ Đạo “Bá Thiên vạn kiếp nan tao ngộ”. Bởi cái may duyên ấy do nơi mấy em đào tạo nó một phần tử buổi sơ sinh tức nhiên, kể từ hạng sơ sinh Đức Chí-Tôn đã đến lựa từ khi mấy em đã có trí khôn ngoan cho nhập Thánh-Thể của Ngài đứng vào hàng Chức-Sắc Thiên-Phong gọi là Chư Thánh, mấy em mới nên người “Tam thập nhi lập”.
Cái phẩm vị Thiêng Liêng của mấy em nơi mặt thế:
Phó Trị Sự, Thông Sự đối với Ngôi Giáo Tông, Hộ Pháp, trong khi tuổi của mấy em đã tri thiên mạng rồi, rất ngộ nghĩnh thay Đức Chí Tôn lấy công bình ấy đặng lập Thánh Thể của Ngài, Ngài để một kiểu vở, một khuôn luật Tạo đoan hay là một gia đình kia không khác gì hết. Mấy em đã ngó thấy trong Đạo, Đức Chí-Tôn đã để:
- Hàng Tín-Đồ đối với Đại-Từ-Phụ.
- Phó-Trị-Sự và Thông Sự đối với Phẩm Giáo Tông và Hộ Pháp.
- Chánh-Trị-Sự đối với Phẩm Đầu-Sư.
Thì mấy em thử nghĩ coi khuôn khổ Thánh Thể của Ngài không có một cái gì sơ sót hết.
Tỉ như một hột kia chúng ta gieo xuống, nó hột xoài thì sanh xoài, mít thì sanh ra mít, khi mấy em gieo hột mít xuống rồi mấy em quả quyết nó sẽ có cây mít, thì cây mít có ngay. Khuôn luật vẫn có một mà thôi. Qua nghĩ cái độc tâm của người có những quỉ quyền tưởng đâu sẽ tiêu diệt Thánh Thể của Đức Chí Tôn. Qua nói thiệt, nếu dưới mặt thế gian nầy tiêu diệt cả Thánh-Thể của Đức Chí-Tôn được, thì không còn ai nữa.
Từ Tín Đồ đến Hội Thánh chẳng hề khi nào tiêu diệt nó được, kẻ nào muốn tiêu diệt Đạo Cao Đài tốt hơn đừng sanh ra bởi chẳng hề khi nào muốn tiêu diệt Đạo đặng, khuôn luật vẫn vậy.
Hôm nay Qua giảng một điều thiết yếu cho mấy Em nghe quyền siêu thoát. Mấy em xét coi nơi mình mấy Em từ chân, tay trong xác thân cho tới cả tinh thần đầu óc mấy Em nó đều có linh cảm cả.
Khốn nạn thay! Con người không biết thương nhau mà lại ghét lẫn nhau, mà hễ ghét lẫn nhau tức nhiên ghét Thánh-Thể Đức Chí-Tôn, nếu ghét Thánh-Thể Đức Chí Tôn rồi, thì ngày Qua về cảnh Thiêng Liêng đứng trước Cực Lạc Thế Giới, mấy em chẳng hề khi nào chối tội đặng. Nếu mấy em thương nhau không được thì không được phép ghét nhau.”

10 - Một người Thầy giỏi mới tạo được trò hay.
Một nền Tôn-giáo phải có đủ Tinh-thần làm căn bản và một Giáo-chủ sáng-suốt mới mong lãnh đạo một Tôn-giáo toàn cầu.
Đức Hộ-Pháp nói: “Đức Chí-Tôn mở Đạo đem lòng Thương-yêu vô tận của Ngài, Ngài đến chung sống cùng con cái của Ngài. Theo luân-lý thường tình của ta, một ông Cha cực nhọc đi đến tìm con, bao giờ lòng Thương-yêu vô tận âý cũng trên hết mọi tâm tình. Chính mình không có kể đứa con nào nên, đứa nào hư, đứa nào hèn, đứa nào sang, không kể gì cái đó hết thảy. Vì cớ cho nên Đức Chí-Tôn mở Đạo, Ngài ôm cả con cái của Ngài vào lòng, theo thể Bần-Đạo ngó thấy hiển-nhiên rằng: Đức Chí-Tôn không kể Nguyên nhân, Hóa-nhân, Quỉ-nhân gì hết.
Bằng cớ khi nọ có một người đàn bà, Bần-Đạo không nên nói tên ra làm chi, đội sớ quì mãi đến bãi đàn, Tôi không biết xin điều gì, quì đến bãi đàn, đội sớ quì như vậy từ đàn này đến đàn khác, theo đuổi giỏi-dắn siêng năng lắm. Ngày nọ, đến cái đàn chót Đức Chí-Tôn kêu tên người đó rồi hỏi:
- Con muốn lắm sao con ?                                             
Người kia  thầm vái cái gì không biết, Đức Chí Tôn nói:  Thôi, phong cho con chức Giáo-hữu đó !
Thành thử ta ngó thấy rằng: Giá-trị của chức Giáo Hữu chẳng có gì hết! Bất kỳ ai cũng cầu được, đem vô cái thể của Ổng với những phần tử vô-giá-trị, làm cho Đức Lý buổi nọ cầm quyền Thiêng-liêng mối Đạo Ngài khổ-não không biết sao luận được.
Buổi nọ Bần-Đạo không hiểu gì hết. Đức Chí Tôn đến ban sơ mở Đạo, Đại-Từ-Phụ đòi truyền Bí-pháp cho Bần-Đạo đi thôi, còn  về Thể-pháp thì Hội-Thánh không biết chi hết. Nội Bí-pháp không, Đại-Từ-Phụ đã truyền giáo, Ngài mở Đạo tại Từ-Lâm-Tự đến ngày khai đàn, Bần-Đạo cười sống, cười chết, cười lộn mật, cười quên đầu quên đuôi hết ráo. Bởi cớ cho nên quỉ lộng, cho đến  chừng bị rầy cam chịu, bơ-bơ có biết gì đâu !
Về Thể-pháp, Bần-Đạo bị chê, Đức Lý phiền biết bao nhiêu. Bần-Đạo không dám mở miệng nói gì hết, lại một nỗi Phật-Mẫu và Đại-Từ-Phụ đem quyền Chí-Tôn, Bát-Quái-Đài duy có một Ông mà thôi !
Còn quyền Chí-Tôn Thánh-Thể hữu-hình, Ổng hỏi lấy ai hiệp một mới đương đầu với Ổng? Tức nhiên  Hộ Pháp, Giáo-Tông hiệp một  cùng nhau:  hai quyền ấy mới
nắm quyền Chí-Tôn của Ngài.
Ngẫm ra, buổi nọ Đức Lý nói với Bần-Đạo: theo Ngài phải hay theo Đức Chí-Tôn phải ?
- Theo Đại-Từ-Phụ chắc hẳn !
Bần-Đạo nói thiệt, chẳng hề Bần-Đạo nghe theo Đức Lý được, Thánh-thể của Đức Chí-Tôn hồi buổi đó không có giá-trị, không trật-tự, họ chia phe phân phái, họ còn phe đảng dữ lắm, mạnh đặng yếu thua, thế-lực dữ lắm, không có cái gì thiếu, làm cho Thánh-ThểĐức Chí Tôn buổi nọ dơ bẩn làm sao đâu, không thể tưởng-tượng được!
Đức Lý-Giáo-Tông hội Chư Thánh, nhưng đương đầu với Đức Chí-Tôn chẳng dám. Vì lẽ đó, họ chia phe phân phái, lập đảng. Ngài thấy tình cảnh như vậy, Ngài mới biểu Bần-Đạo xuống tại Thủ-Đức trong bảy tháng, Bần Đạo chung sống cùng Ngài đặng cho Ngài truyền Thể pháp.
Giờ phút này Bần-Đạo đứng tại Tòa giảng đây tưởng-tượng nhớ đến tâm-tình ấy thấm-thiết biết bao nhiêu! Nồng-nàn mà nói, không có một điều gì sơ-sót: chỉ đủ mọi hành-tàng, rành-rẽ chi tiết hết.
Bần-Đạo vừa biết rồi Đức Lý liền từ chức, không làm Giáo-Tông của Đạo trọn ba năm nữa vậy.
Khi Bần-Đạo ở  Thủ-Đức về: Đức Lý đặt một đàng, Ngài biểu theo Ngài chỉnh đốn Hội-Thánh lại.
Một đàng Đức Chí-Tôn nói: đừng nghe Lý-Thái Bạch nghe Phạm-Công-Tắc !
Một đàng kéo, một đàng trì, làm cho Bần-Đạo không biết đường đi chút nào; thất-thơ thất-thưởng, mất linh-hồn, muốn nửa tỉnh nửa say. Ngài đến 11 giờ, Ngài viết cho đến 4 giờ sáng, chỉ rành-rẽ thế nào, nhứt là Ngài biểu Bần-Đạo hiệp cùng Ngài cho có quyền Chí-Tôn  hữu hình tại thế này:
- Hiền-hữu muốn cho Đạo Cao-Đài còn tồn-tại hay nghe lời Đức Chí-Tôn để cho nền Đạo phải mất ?
Bần-Đạo cứ nghĩ-nghị, đó rồi Đức Chí-Tôn đến; thật sự Ông già hơi buồn thật,  Ngài nói:
- TẮC ! con sửa-soạn đặng làm Lễ đăng điện cho Đức Lý-Giáo-Tông đa nghe!  Rồi có Ông ở đó Ông nghe Đức Lý-Giáo-Tông cầm quyền.
Đức Lý, Ngài biểu Thiên-phong Chức-sắc Cửu Trùng-Đài, Hiệp-Thiên-đài lập Cửu-Trùng-Thiên để Ngài đăng điện, khi Ngài đăng điện rồi, Ngài cầm cây viết Ngài viết bài Diễn-văn đăng điện cho tới tận thế sẽ không có vị Giáo-Tông nào làm một bài Diễn-văn hay như vậy. Bài Diễn-văn của Ngài vạch rõ tinh-thần, con đường hay ho làm sao, nhứt là bài Diễn-văn đó cho cả  Hội-Thánh hay rằng:
“Kể từ khi Ngài cầm quyền Giáo-Tông đây, các người ấy đừng Ỷ CÔNG KHI LỊNH, Ngài chẳng hề tha thứ bao giờ”.
Ngài nói một đàng về hữu hình, chính mình Bần Đạo chưa thấy Ngài làm gì được nhưng về vô-hình Ngài trừng thanh bí-mật huyền-linh không thể tưởng-tượng được. Khéo là cái làm Ngài không lợi dụng, chính Ngài dùng quyền hành Thiêng liêng trừng thanh độc lập mà thôi. Duy có Ngài làm, Bần-đạo không biết !”
Hạnh Đường                                                                                       [1]  [2]  [3]  [4]